15:49 30/11/2022

Suýt mất căn hộ cao cấp vì hợp đồng ủy quyền “ma”

Đỗ Mến

Vì cần tiền, Hồng cùng với Nam và Thanh lập hợp đồng ủy quyền, thuê người đóng giả anh P. để có toàn quyền định đoạt căn hộ cao cấp. ..

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Theo bản án sơ thẩm, Đào Thúy Hồng (SN 1985, ở quận Thanh Xuân) và anh Nguyễn Kim P. là vợ chồng, ly hôn năm 2020. Giữa 2 người có tài sản chung là căn hộ tại một chung cư cao cấp ở quận Thanh Xuân, Hà Nội. Quá trình ly hôn, hai người không đề nghị tòa án giải quyết và chưa chia tài sản trên.

Khoảng đầu tháng 10/2020, do cần tiền nên thông qua các mối quan hệ, Hồng quen biết Nguyễn Trọng Nam (SN 1975, ở quận Bắc Từ Liêm), Nguyễn Thị Thanh (SN 1976, ở huyện Hoài Đức). Nam đồng ý cho vay tiền với điều kiện Hồng phải làm thủ tục chuyển nhượng căn hộ để đảm bảo khoản vay. Trước yêu cầu trên, mặc dù không có toàn quyền định đoạt căn hộ song Hồng vẫn đồng ý.

Sau đó, Nam đã nhờ 2 nhân viên ngân hàng đi cùng đến căn hộ trên để thẩm định và đồng ý cho Hồng vay 1,2 tỷ đồng với lãi suất 12%/năm. Nam yêu cầu Hồng cung cấp các giấy tờ gồm căn cước công dân của 2 vợ chồng, sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.

Khi đó, Hồng nói với Thanh là đã ly hồn chồng. Thanh trao đổi với lại với Nam. Hai người này đã bàn bạc tìm người đóng giả anh P. , đồng thời thuê người làm  giả căn cước công dân của anh P. để ký hợp đồng ủy quyền. Nam hứa hẹn nếu hoàn thành công việc sẽ trả tiền công cho Thanh. Thanh nói lại kế hoạch trên và Hồng đồng ý.

Đến giữa tháng 10/2020, Thanh thuê Lê Văn Phương đóng giả anh P.

Ngày 9/11/2020, Nam bảo Thanh liên hệ văn phòng công chứng Vũ Tiến Trí để lập hợp đồng ủy quyền. Nội dung là anh P. ủy quyền cho Hồng toàn quyền sở hữu, định đoạt căn hộ. Thanh đưa Hồng vào văn phòng ký phiếu yêu cầu công chứng và ký hợp đồng ủy quyền. Hồng ký tên, điểm chỉ vào bên được ủy quyền. Còn Phương ký tên và điểm chỉ vào bên ủy quyền.

Sau này, Thanh gặp và đưa cho Phương 10 triệu đồng tiền công. Còn căn cước công dân giả, Thanh bẻ nhỏ và phi tang.

Các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm.
Các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm.

Có hợp đồng ủy quyền trong tay, Nam liên hệ với chị Nguyễn Xuân H. (SN 1976) hỏi vay 2,5 tỷ đồng. Khi vay tiền, Nam cũng nói có tài sản đảm bảo là căn hộ của Hồng. Để đảm bảo khoản vay, chị H. đã nhờ bạn là Nguyễn Thị T. đứng tên ký hợp đồng mua bán căn hộ với Hồng.

Hoàn thiện xong hợp đồng mua bán, Nam tiếp tục nhờ chị H. làm thủ tục sang tên căn hộ để Nam liên hệ vay tiền ngân hàng. Tuy nhiên, căn hộ bị chặn giao dịch sang tên chuyển nhượng. Chị H. đã liên hệ với Nam và yêu cầu trả lại số tiền đã vay. Nhưng Nam và Hồng chưa có tiền để trả. Đến tháng 3/2021, biết căn hộ trên được gỡ bỏ ngăn chặn giao dịch nên Nam đã liên hệ làm thủ tục sang tên căn hộ cho chị Nguyễn Thị T. – bạn chị H.

Ngày 30/3/2021, Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hà Nội đã cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền trên đất cho chị Nguyễn Thị T.

Ngày 15/4/2021, Nam nhờ chị T. làm thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất căn hộ trên để vay ngân hàng hơn 3,1 tỷ đồng. Hiện Nam đã trả lại cho chị H. 2,5 tỷ đồng nợ gốc và 500 triệu đồng tiền lãi.

Đến ngày 26/5/2021, Hồng làm đơn đến cơ quan công an tố giác Nam có hành vi làm giả con dấu, tự ý sang tên căn hộ và thế chấp vay tiền ngân hàng. Sau đó, Hồng đã trả Nam tiền. Đến ngày 25/6/2021, Nam đã đưa cho chị T. hơn 3,1 tỷ đồng để tất toán khoản vay ngân hàng và lấy lại sổ đỏ căn hộ để giao cho cơ quan điều tra.

Đến tháng 7/2021, anh P. phát hiện căn hộ bị sang tên cho chị T. nên đã gửi đơn đến cơ quan công an.

 

Tòa cũng tuyên hủy hợp đồng ủy quyền, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Nguyễn Thị T. Hồng và anh P. có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại sổ đỏ.

Quá trình điều tra, Nam khai nhận, do muốn có thêm khoản tiền chênh nên cùng với Thanh thuê người đóng giả anh P. nhằm mục đích làm giả hợp đồng ủy quyền.

Tòa sơ thẩm xử phạt Nam 30 tháng tù, Thanh 28 tháng tù treo, Phương 28 tháng tù treo và Hồng 26 tháng tù treo.

Sau phiên tòa sơ thẩm, anh P. kháng cáo, đề nghị tòa bổ sung với các bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đồng thời phải xác định lại tư cách tố tụng với anh P. là bị hại, không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Ngoài ra, anh P. yêu cầu xem xét lại hình phạt đối với các bị cáo.

Tòa án thấy rằng, việc bị cáo Hồng chuyển nhượng căn hộ chỉ là thỏa thuận giả cách để vay tiền. Các bị cáo đã giải chấp căn hộ để nộp lại sổ đỏ cho cơ quan điều tra. Vì vậy, tòa án xác định không có căn cứ các bị cáo phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do anh P. vẫn giữ tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên không có quyền kháng cáo về phần mức án đối với các bị cáo.

Sau khi xem xét, tòa phúc thẩm cũng quyết định giảm án cho các bị cáo và tuyên Nam lĩnh 20 tháng tù, Thanh 20 tháng tù treo, Phương và Hồng nhận 18 tháng tù treo.

 

Bản án sơ thẩm xác định, hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân được pháp luật bảo vệ.