Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú
Tại Việt Nam, số ca ung thư vú mắc mới là 15.229 ca và số ca tử vong là 6.103 ca mỗi năm. Ước tính đến năm 2030, số ca mới mắc ung thư vú tại Việt Nam sẽ tăng lên 20.014 trường hợp và đang có xu hướng tăng nhanh.
Tại lễ ký kết hợp tác "Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú giai đoạn 2020-2025" ông Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết, tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 376/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống bệnh ung thư, tim mạch, đái tháo đường, và các bệnh không lây nhiễm khác giai đoạn 2015 – 2025. Trong đó phòng, chống bệnh ung thư là một trong những nội dung thuộc Chương trình Mục tiêu Quốc gia, cho thấy bệnh ung thư đang là một vấn đề lớn với sức khỏe của toàn xã hội.Trên toàn cầu, ung thư vú là ung thư có tỷ lệ mắc hằng đầu ở nữ giới và đứng thứ 5 về tỷ lệ tử vong trong tổng số số các loại ung thư (tổng số 626.679 ca tử vong). Tại Việt Nam, số ca ung thư vú mắc mới là 15.229 ca và số ca tử vong là 6.103 ca mỗi năm. Ước tính đến năm 2030, số ca mới mắc ung thư vú tại Việt Nam sẽ tăng lên 20.014 trường hợp và đang có xu hướng tăng nhanh.Ông Trần Văn Thuấn chia sẻ, 10 năm trước có đến 80% bệnh nhân ung thư vú đến bệnh viện khi bệnh đã ở giai đoạn 3,4, nhưng khảo sát gần nhất cho thấy tỉ lệ này đã giảm xuống, hiện ở mức 55%. Tỉ lệ được điều trị khỏi trong ung thư nói chung và ung thư vú nói riêng ngày càng cao. Kết quả này có được là nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong y học như các kỹ thuật chẩn đoán xét nghiệm hay các liệu pháp điều trị sinh học mới cùng với việc phát hiện sớm và người bệnh tiếp cận được với các liệu pháp điều trị tiên tiến.
Tại lễ ký kết hợp tác "Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú giai đoạn 2020-2025" ông Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết, tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 376/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống bệnh ung thư, tim mạch, đái tháo đường, và các bệnh không lây nhiễm khác giai đoạn 2015 – 2025. Trong đó phòng, chống bệnh ung thư là một trong những nội dung thuộc Chương trình Mục tiêu Quốc gia, cho thấy bệnh ung thư đang là một vấn đề lớn với sức khỏe của toàn xã hội.Trên toàn cầu, ung thư vú là ung thư có tỷ lệ mắc hằng đầu ở nữ giới và đứng thứ 5 về tỷ lệ tử vong trong tổng số số các loại ung thư (tổng số 626.679 ca tử vong). Tại Việt Nam, số ca ung thư vú mắc mới là 15.229 ca và số ca tử vong là 6.103 ca mỗi năm. Ước tính đến năm 2030, số ca mới mắc ung thư vú tại Việt Nam sẽ tăng lên 20.014 trường hợp và đang có xu hướng tăng nhanh.Ông Trần Văn Thuấn chia sẻ, 10 năm trước có đến 80% bệnh nhân ung thư vú đến bệnh viện khi bệnh đã ở giai đoạn 3,4, nhưng khảo sát gần nhất cho thấy tỉ lệ này đã giảm xuống, hiện ở mức 55%. Tỉ lệ được điều trị khỏi trong ung thư nói chung và ung thư vú nói riêng ngày càng cao. Kết quả này có được là nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong y học như các kỹ thuật chẩn đoán xét nghiệm hay các liệu pháp điều trị sinh học mới cùng với việc phát hiện sớm và người bệnh tiếp cận được với các liệu pháp điều trị tiên tiến.
Đề án "Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú nguy cơ cao giai đoạn 2020 – 2025" sẽ triển khai nhiều hoạt động trong giai đoạn 2020 – 2025 bao gồm nâng cao nhận thức cộng đồng về bệnh ung thư vú, gia tăng số lượng người được chẩn đoán sớm tại các bệnh viện tham gia Đề án; Tăng cường năng lực chẩn đoán và điều trị ung thư vú đến năm 2025; Tối ưu hóa dữ liệu sẵn có của Bảo hiểm và Viện Ung thư Quốc gia nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu chẩn đoán và điều trị ung thư vú.Thông tin từ bà Nguyễn Thị Xuyên, Chủ tịch Tổng Hội Y học Việt Nam, đây là Đề án đầu tiên tại Việt Nam dành riêng cho bệnh ung thư vú với quy mô và số lượng đối tác lớn, mang lại lợi ích thiết thực cho bệnh nhân. Đối với bệnh viện, Đề án này giúp nâng cao năng lực chữa trị ung thư vú cho nhiều y bác sĩ hơn, qua đó giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên và nâng cao chất lượng chữa trị trên mỗi bệnh nhân.Với sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan như các cấp Chính phủ (Bộ Y tế, Bảo hiểm Xã hội, Bảo hiểm Y tế Việt Nam), cơ quan y tế chuyên môn, các bệnh viện lớn, cùng doanh nghiệp Roche Việt Nam, đề án được kỳ vọng đem lại nhiều cải tiến và lợi ích cho hệ thống y tế nói chung và người bệnh nói riêng.