Thủ tướng: “Không nên để vốn ngân hàng chỉ chảy vào các đại gia”
Bài toán tăng trưởng tín dụng, hạ lãi suất và xử lý nợ xấu tiếp tục được Thủ tướng đặt ra với Ngân hàng Nhà nước
“Thủ tướng mới đây có đặt vấn đề là làm sao tín dụng tăng trưởng không nên chảy vào một số đại gia mà phải chảy vào doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tức là chảy vào đầu tư sản xuất, cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp”.
Chỉ đạo trên của Thủ tướng đối với Ngân hàng Nhà nước được Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ truyền đạt lại tại buổi làm việc giữa Tổ công tác của Thủ tướng với cơ quan này, sáng 18/7.
Theo Tổ trưởng Tổ công tác Mai Tiến Dũng, Thủ tướng đã giao Tổ công tác kiểm tra các bộ, cơ quan, địa phương về các giải pháp thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP 6,7% năm 2017 trong điều kiện có nhiều thuận lợi nhưng thách thức cũng rất lớn. Ngân hàng Nhà nước là đơn vị thứ 28 mà Tổ công tác kiểm tra và là đơn vị thứ 4 được kiểm tra, đôn đốc mục tiêu tăng trưởng.
Thông qua Tổ công tác, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc truyền đạt 6 vấn đề mà Ngân hàng Nhà nước cần giải trình, đưa ra các giải pháp thực hiện tốt nhất.
Vấn đề thứ nhất là tăng trưởng tín dụng và hạ lãi suất. Đây là vấn đề rất quan trọng với mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm từ 18-20%.
Tại hội nghị Chính phủ với các địa phương gần đây, Thủ tướng có đặt vấn đề là làm sao tín dụng này không nên chảy vào một số "đại gia" mà phải chảy vào doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tức là chảy vào đầu tư sản xuất, cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp.
Năm 2016, cả nước có 110.000 doanh nghiệp thành lập mới, 6 tháng đầu năm có xấp xỉ 60.000 doanh nghiệp mới, nhưng số doanh nghiệp dừng hoạt động, đóng cửa cũng nhiều do các nguyên nhân như khó khăn về tiếp cận tín dụng, đất đai, chính sách…
Nghị quyết phiên họp Chính phủ đã giao Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại phấn đấu giảm lãi suất từ 0,5-1%.
“Tính toán phác thảo, dư nợ tín dụng của Việt Nam khoảng trên 5 triệu tỷ đồng, nếu giảm lãi suất 1% thì các doanh nghiệp dành được 50.000 tỷ đồng, cứ tính 5 đồng vốn 1 đồng lãi thì chúng ta đã có 10.000 tỷ đồng, riêng tiền thuế thu nhập doanh nghiệp đã có 2.000 tỷ đồng và giúp tăng 0,25% GDP. Hay nợ công trong nước hiện khoảng 1 triệu tỷ đồng, nếu giảm lãi suất 1% thì tiết kiệm từ ngân sách khoảng 10.000 tỷ đồng”, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nhìn nhận.
Vấn đề thứ hai là xử lý nợ xấu. Theo Thủ tướng, muốn hạ lãi suất thì phải xử lý nợ xấu, nhưng không thể trong một chốc một lát. Ngân hàng Nhà nước phải có giải pháp thực hiện sớm, thực hiện tốt nghị quyết về xử lý nợ xấu đã được Quốc hội thông qua, bảo đảm đúng tinh thần nghị quyết, có hướng dẫn cụ thể các tổ chức tín dụng từ việc bán tài sản bảo đảm, bán nợ xấu…
“Không xử lý nợ xấu không thể hạ lãi suất”, Tổ trưởng Mai Tiến Dũng nhấn mạnh.
Vấn đề thứ ba, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết được “Thủ tướng nhắc đi nhắc lại 3 lần” là Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu giải pháp huy động nguồn lực rất lớn trong dân. “Làm sao huy động được nguồn lực USD đang nằm trong dân; thay vì gửi với lãi suất 0% thì làm sao huy động nguồn lực này, hòa vào các nguồn lực khác cho đầu tư. Ngân hàng Nhà nước có chủ trương quyết liệt là chống đô la hóa, nhưng trong điều kiện có thể kiểm soát thì làm sao huy động được nguồn lực này. Chúng ta vẫn phải mua trái phiếu quốc tế với lãi suất trên 4%, vậy huy động trong dân thế nào”, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói
Vấn đề thứ tư là vấn đề sở hữu chéo. Sau khi Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 36 thì việc sở hữu chéo được kiểm soát tốt hơn, nhưng không phải không còn. Ví dụ trước thời điểm Thông tư 36 có hiệu lực, Vietcombank sở hữu 9,8% cổ phần MBB, 8,2% Eximbank, 5,26% SaigonBank và 4,6% OCB, thì đến thời điểm này Vietcombank vẫn đang nắm hơn 7,16% cổ phần MBB, 8,19% Eximbank, 5,07% OCB và 4,3% Saigonbank. Cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc Thông tư 36, đây là giải pháp căn cơ.
Tiếp đến, Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục quan tâm tới một số lĩnh vực. Qua tiếp xúc thì một số doanh nghiệp đang rất khó khăn với các thủ tục liên quan tới tài sản trên diện tích đất thuê.
“Thống đốc tính toán thế nào để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, dù đất thuê nhưng tài sản trên đất làm sao có thể thế chấp để vay vốn”, Bộ trưởng Dũng nói.
Liên quan tới Nghị định 67, tại Khánh Hòa có 17/54 trường hợp đủ điều kiện vay vốn đóng tàu nhưng ngân hàng không cho vay, ở Thanh Hóa cũng có một số trường hợp. Đồng thời chú ý triển khai gói tín dụng 100.000 tỷ đồng cho nông nghiệp công nghệ cao, không sử dụng ngân sách mà Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại dành gói tín dụng này với lãi suất thấp hơn thông thường.
Cuối cùng, Thủ tướng lưu ý Ngân hàng Nhà nước phải tăng cường bảo đảm an toàn thông tin, an toàn cho người gửi tiền. “Chúng ta đang khuyến khích người dân thay vì sử dụng tiền mặt thì sử dụng các hình thức khác, nên việc bảo đảm an toàn là rất quan trọng, nếu không sẽ ảnh hưởng tới lòng tin”, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói.
Theo Thống đốc Lê Minh Hưng, đây đều là những vấn đề rất quan trọng và trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ chỉ đạo quyết liệt để triển khai.
Cũng tại buổi làm việc, thông qua Tổ công tác, Thủ tướng đã đánh giá cao việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong 6 tháng đầu năm, thể hiện được tính chủ động, linh hoạt, qua đó làm cho mặt bằng lãi suất, tỷ giá ổn định, tăng trưởng tín dụng hợp lý, hướng dòng vốn vào sản xuất kinh doanh được chú trọng hơn.
Chỉ đạo trên của Thủ tướng đối với Ngân hàng Nhà nước được Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ truyền đạt lại tại buổi làm việc giữa Tổ công tác của Thủ tướng với cơ quan này, sáng 18/7.
Theo Tổ trưởng Tổ công tác Mai Tiến Dũng, Thủ tướng đã giao Tổ công tác kiểm tra các bộ, cơ quan, địa phương về các giải pháp thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP 6,7% năm 2017 trong điều kiện có nhiều thuận lợi nhưng thách thức cũng rất lớn. Ngân hàng Nhà nước là đơn vị thứ 28 mà Tổ công tác kiểm tra và là đơn vị thứ 4 được kiểm tra, đôn đốc mục tiêu tăng trưởng.
Thông qua Tổ công tác, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc truyền đạt 6 vấn đề mà Ngân hàng Nhà nước cần giải trình, đưa ra các giải pháp thực hiện tốt nhất.
Vấn đề thứ nhất là tăng trưởng tín dụng và hạ lãi suất. Đây là vấn đề rất quan trọng với mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm từ 18-20%.
Tại hội nghị Chính phủ với các địa phương gần đây, Thủ tướng có đặt vấn đề là làm sao tín dụng này không nên chảy vào một số "đại gia" mà phải chảy vào doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tức là chảy vào đầu tư sản xuất, cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp.
Năm 2016, cả nước có 110.000 doanh nghiệp thành lập mới, 6 tháng đầu năm có xấp xỉ 60.000 doanh nghiệp mới, nhưng số doanh nghiệp dừng hoạt động, đóng cửa cũng nhiều do các nguyên nhân như khó khăn về tiếp cận tín dụng, đất đai, chính sách…
Nghị quyết phiên họp Chính phủ đã giao Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại phấn đấu giảm lãi suất từ 0,5-1%.
“Tính toán phác thảo, dư nợ tín dụng của Việt Nam khoảng trên 5 triệu tỷ đồng, nếu giảm lãi suất 1% thì các doanh nghiệp dành được 50.000 tỷ đồng, cứ tính 5 đồng vốn 1 đồng lãi thì chúng ta đã có 10.000 tỷ đồng, riêng tiền thuế thu nhập doanh nghiệp đã có 2.000 tỷ đồng và giúp tăng 0,25% GDP. Hay nợ công trong nước hiện khoảng 1 triệu tỷ đồng, nếu giảm lãi suất 1% thì tiết kiệm từ ngân sách khoảng 10.000 tỷ đồng”, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nhìn nhận.
Vấn đề thứ hai là xử lý nợ xấu. Theo Thủ tướng, muốn hạ lãi suất thì phải xử lý nợ xấu, nhưng không thể trong một chốc một lát. Ngân hàng Nhà nước phải có giải pháp thực hiện sớm, thực hiện tốt nghị quyết về xử lý nợ xấu đã được Quốc hội thông qua, bảo đảm đúng tinh thần nghị quyết, có hướng dẫn cụ thể các tổ chức tín dụng từ việc bán tài sản bảo đảm, bán nợ xấu…
“Không xử lý nợ xấu không thể hạ lãi suất”, Tổ trưởng Mai Tiến Dũng nhấn mạnh.
Vấn đề thứ ba, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết được “Thủ tướng nhắc đi nhắc lại 3 lần” là Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu giải pháp huy động nguồn lực rất lớn trong dân. “Làm sao huy động được nguồn lực USD đang nằm trong dân; thay vì gửi với lãi suất 0% thì làm sao huy động nguồn lực này, hòa vào các nguồn lực khác cho đầu tư. Ngân hàng Nhà nước có chủ trương quyết liệt là chống đô la hóa, nhưng trong điều kiện có thể kiểm soát thì làm sao huy động được nguồn lực này. Chúng ta vẫn phải mua trái phiếu quốc tế với lãi suất trên 4%, vậy huy động trong dân thế nào”, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói
Vấn đề thứ tư là vấn đề sở hữu chéo. Sau khi Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 36 thì việc sở hữu chéo được kiểm soát tốt hơn, nhưng không phải không còn. Ví dụ trước thời điểm Thông tư 36 có hiệu lực, Vietcombank sở hữu 9,8% cổ phần MBB, 8,2% Eximbank, 5,26% SaigonBank và 4,6% OCB, thì đến thời điểm này Vietcombank vẫn đang nắm hơn 7,16% cổ phần MBB, 8,19% Eximbank, 5,07% OCB và 4,3% Saigonbank. Cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc Thông tư 36, đây là giải pháp căn cơ.
Tiếp đến, Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục quan tâm tới một số lĩnh vực. Qua tiếp xúc thì một số doanh nghiệp đang rất khó khăn với các thủ tục liên quan tới tài sản trên diện tích đất thuê.
“Thống đốc tính toán thế nào để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, dù đất thuê nhưng tài sản trên đất làm sao có thể thế chấp để vay vốn”, Bộ trưởng Dũng nói.
Liên quan tới Nghị định 67, tại Khánh Hòa có 17/54 trường hợp đủ điều kiện vay vốn đóng tàu nhưng ngân hàng không cho vay, ở Thanh Hóa cũng có một số trường hợp. Đồng thời chú ý triển khai gói tín dụng 100.000 tỷ đồng cho nông nghiệp công nghệ cao, không sử dụng ngân sách mà Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại dành gói tín dụng này với lãi suất thấp hơn thông thường.
Cuối cùng, Thủ tướng lưu ý Ngân hàng Nhà nước phải tăng cường bảo đảm an toàn thông tin, an toàn cho người gửi tiền. “Chúng ta đang khuyến khích người dân thay vì sử dụng tiền mặt thì sử dụng các hình thức khác, nên việc bảo đảm an toàn là rất quan trọng, nếu không sẽ ảnh hưởng tới lòng tin”, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói.
Theo Thống đốc Lê Minh Hưng, đây đều là những vấn đề rất quan trọng và trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ chỉ đạo quyết liệt để triển khai.
Cũng tại buổi làm việc, thông qua Tổ công tác, Thủ tướng đã đánh giá cao việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong 6 tháng đầu năm, thể hiện được tính chủ động, linh hoạt, qua đó làm cho mặt bằng lãi suất, tỷ giá ổn định, tăng trưởng tín dụng hợp lý, hướng dòng vốn vào sản xuất kinh doanh được chú trọng hơn.