Vì sao nhiều lao động chấp nhận kiếm tiền bằng mọi giá?
Người lao động không có nhiều lựa chọn mà chấp nhận làm bất cứ loại công việc gì
Vụ tai nạn sập giàn giáo tại dự án Fomosa (Vũng Áng, Hà Tĩnh) vừa qua là một biểu hiện của việc người lao động không có nhiều lựa chọn mà chấp nhận làm bất cứ loại công việc gì, kể cả những công việc có mức thu nhập thấp, bấp bênh, điều kiện làm việc không đảm bảo.
Đây là nhận định của Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân 2015, diễn ra trong hai ngày 21 và 22/4 tại thành phố Vinh (Nghệ An).
1,2 triệu lao động thiếu việc làm
Lưu ý là các số liệu về lao động, đặc biệt số liệu về thất nghiệp ở Việt Nam thường không có độ tin cậy cao do những bất cập trong thống kê, song thông tin từ ít phút đăng đàn cộng với bản tham luận được ông Lợi chuẩn bị sẵn, đã cho thấy khá nhiều bất cập của thị trường lao động.
Cụ thể, tính đến thời điểm 31/12/2014 dân số cả nước là 90,7 triệu người, số người từ 15 tuổi trở lên là 70,06 triệu (chiếm 78% tổng dân số), trong đó có 54,4 triệu người thuộc lực lượng lao động.
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế là 53,4 triệu người, tăng 1,56% so với năm 2013.
Cùng thời điểm, cả nước đã có khoảng 1,2 triệu lao động thiếu việc làm (chiếm tỷ lệ 2,45%) và gần 1 triệu lao động thất nghiệp chiếm 2,08%.
Tỷ lệ thất nghiệp chung theo điều tra ở mức rất thấp (1,81%). Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên từ 15-24 tuổi chiếm 45,5% trong tổng số lao động thất nghiệp cả nước.
Năng suất lao động xã hội năm 2014 theo giá hiện hành của toàn nền kinh tế ước tính đạt 3.515 USD/lao động. Dù năng suất lao động thực tế liên tục tăng trong thời gian qua, bình quân đạt 3,7%/năm trong giai đoạn 2005-2014, nhưng xếp hạng chung, Việt Nam chỉ bằng 1/18 năng suất lao động của Singapore; bằng 1/6 của Malaysia; bằng 1/3 của Thái Lan và Trung Quốc, bản tham luận nêu rõ.
Nhận xét chung, ông Lợi khái quát quy mô lực lượng lao động có xu hướng tăng chậm làm giảm áp lực việc làm, trong khi nền kinh tế đang trong giai đoạn khôi phục nên tỷ lệ thất nghiệp biến động không nhiều.
Nhưng vấn đề đáng lưu ý đối với thị trường lao động Việt Nam là năng suất lao động thấp và tiền lương, tiền công không cao.
Tình trạng thiếu việc làm, thu nhập giảm sút của người lao động sẽ kéo theo nhiều hệ lụy xã hội nghiêm trọng, nếu không có những giải pháp đối phó hiệu quả sẽ tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội.
Đặc biệt, hiện nay, khu vực nông nghiệp, nông thôn không còn là “bà đỡ” có thể hấp thụ được số lượng người mất việc làm ở thành phố trở về thì nguy cơ bất ổn xã hội càng hiện hữu, ông Lợi đánh giá.
Điều này, theo vị chuyên gia về lao động - việc làm, phần nào được giải thích bởi Việt Nam là một nước nông nghiệp, do kinh tế phát triển còn thấp nên mức sống của người dân chưa cao và an sinh xã hội chưa đầy đủ.
Vì vậy, người lao động thường chấp nhận làm bất cứ loại công việc gì, kể cả những công việc có mức thu nhập thấp, bấp bênh, điều kiện làm việc không đảm bảo (việc làm không bền vững) nhằm nuôi sống bản thân và gia đình hơn là thất nghiệp dài để chờ đợi công việc tốt hơn.
Vụ việc tai nạn sập giàn giáo tại dự án Fomosa (Vũng Áng, Hà Tĩnh) vừa qua chính là một minh chứng, theo ông Lợi.
18,6% có thu nhập dưới 2,7 triệu đồng/tháng
Nhiều thách thức trong vấn đề lao động - việc làm, thất nghiệp ở Việt Nam cũng được ông Lợi đề cập với những con số đáng chú ý.
Chẳng hạn, lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp chiếm 46,6% nhưng chỉ tạo ra 18,12% GDP. Hay mức tiền lương tối thiểu thấp vẫn mới chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu cơ bản của người lao động.
Mức lương này thấp hơn mức lương tối thiểu thực tế trên thị trường khoảng 20% và hiện nay mới đạt khoảng 45% mức tiền lương tối thiểu trung bình của khu vực ASEAN.
Cũng đề cập thất nghiệp và việc làm, TS. Nguyễn Thị Lan Hương (Viện Khoa học lao động và xã hội) cảnh báo, chuyển dịch cơ cấu việc làm vẫn rất chậm và tỷ lệ việc làm có thu nhập thấp vẫn sẽ rất cao.
Bà Hương phân tích, năm 2014, nền kinh tế tạo ra 53 triệu việc làm, tăng 801.000 việc so với năm 2013 (tương đương 1,53%). Thời kỳ 2010-2014, bình quân mỗi năm thị trường tạo thêm được 879.000 việc làm (1,69%), cao hơn tốc độ tăng lực lượng lao động.
Sau hai năm trì trệ do khủng hoảng kinh tế, việc gia tăng số việc làm của nền kinh tế trong năm 2014 cho thấy những tác động của quá trình phục hồi nền kinh tế.
Dù vậy, thời kỳ 2010-2014, trái với xu thế tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân tháng từ công việc chính của lao động tăng rất chậm, chỉ tăng 0,5%/năm (đạt 4,362 triệu đồng/người/tháng).
Thu nhập bình quân tháng từ công việc chính của lao động nữ thấp hơn của lao động nam và khoảng cách chênh lệch tiền lương của nữ/nam có xu hướng gia tăng (từ 91,2% năm 2010 so với 90,5% năm 2014).
Tham luận của bà Hương cũng cho thấy nhiều con số đáng chú ý khác. Như, quý 2/2014, trong số những người làm công ăn lương, 18,6% có thu nhập thấp (dưới 2,7 triệu đồng/tháng).
Quý 4/2014, thu nhập bình quân tháng của lao động nhóm ngành “nông-lâm nghiệp và thủy sản” vẫn thấp nhất, chỉ đạt 2,852 triệu đồng/người/tháng, bằng 58% so với ngành “công nghiệp-xây dựng” (4,242 triệu đồng/người/tháng) và bằng 64% của nhóm ngành “dịch vụ” (4,907 triệu đồng/người/tháng).
Đây là nhận định của Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân 2015, diễn ra trong hai ngày 21 và 22/4 tại thành phố Vinh (Nghệ An).
1,2 triệu lao động thiếu việc làm
Lưu ý là các số liệu về lao động, đặc biệt số liệu về thất nghiệp ở Việt Nam thường không có độ tin cậy cao do những bất cập trong thống kê, song thông tin từ ít phút đăng đàn cộng với bản tham luận được ông Lợi chuẩn bị sẵn, đã cho thấy khá nhiều bất cập của thị trường lao động.
Cụ thể, tính đến thời điểm 31/12/2014 dân số cả nước là 90,7 triệu người, số người từ 15 tuổi trở lên là 70,06 triệu (chiếm 78% tổng dân số), trong đó có 54,4 triệu người thuộc lực lượng lao động.
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế là 53,4 triệu người, tăng 1,56% so với năm 2013.
Cùng thời điểm, cả nước đã có khoảng 1,2 triệu lao động thiếu việc làm (chiếm tỷ lệ 2,45%) và gần 1 triệu lao động thất nghiệp chiếm 2,08%.
Tỷ lệ thất nghiệp chung theo điều tra ở mức rất thấp (1,81%). Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên từ 15-24 tuổi chiếm 45,5% trong tổng số lao động thất nghiệp cả nước.
Năng suất lao động xã hội năm 2014 theo giá hiện hành của toàn nền kinh tế ước tính đạt 3.515 USD/lao động. Dù năng suất lao động thực tế liên tục tăng trong thời gian qua, bình quân đạt 3,7%/năm trong giai đoạn 2005-2014, nhưng xếp hạng chung, Việt Nam chỉ bằng 1/18 năng suất lao động của Singapore; bằng 1/6 của Malaysia; bằng 1/3 của Thái Lan và Trung Quốc, bản tham luận nêu rõ.
Nhận xét chung, ông Lợi khái quát quy mô lực lượng lao động có xu hướng tăng chậm làm giảm áp lực việc làm, trong khi nền kinh tế đang trong giai đoạn khôi phục nên tỷ lệ thất nghiệp biến động không nhiều.
Nhưng vấn đề đáng lưu ý đối với thị trường lao động Việt Nam là năng suất lao động thấp và tiền lương, tiền công không cao.
Tình trạng thiếu việc làm, thu nhập giảm sút của người lao động sẽ kéo theo nhiều hệ lụy xã hội nghiêm trọng, nếu không có những giải pháp đối phó hiệu quả sẽ tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội.
Đặc biệt, hiện nay, khu vực nông nghiệp, nông thôn không còn là “bà đỡ” có thể hấp thụ được số lượng người mất việc làm ở thành phố trở về thì nguy cơ bất ổn xã hội càng hiện hữu, ông Lợi đánh giá.
Điều này, theo vị chuyên gia về lao động - việc làm, phần nào được giải thích bởi Việt Nam là một nước nông nghiệp, do kinh tế phát triển còn thấp nên mức sống của người dân chưa cao và an sinh xã hội chưa đầy đủ.
Vì vậy, người lao động thường chấp nhận làm bất cứ loại công việc gì, kể cả những công việc có mức thu nhập thấp, bấp bênh, điều kiện làm việc không đảm bảo (việc làm không bền vững) nhằm nuôi sống bản thân và gia đình hơn là thất nghiệp dài để chờ đợi công việc tốt hơn.
Vụ việc tai nạn sập giàn giáo tại dự án Fomosa (Vũng Áng, Hà Tĩnh) vừa qua chính là một minh chứng, theo ông Lợi.
18,6% có thu nhập dưới 2,7 triệu đồng/tháng
Nhiều thách thức trong vấn đề lao động - việc làm, thất nghiệp ở Việt Nam cũng được ông Lợi đề cập với những con số đáng chú ý.
Chẳng hạn, lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp chiếm 46,6% nhưng chỉ tạo ra 18,12% GDP. Hay mức tiền lương tối thiểu thấp vẫn mới chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu cơ bản của người lao động.
Mức lương này thấp hơn mức lương tối thiểu thực tế trên thị trường khoảng 20% và hiện nay mới đạt khoảng 45% mức tiền lương tối thiểu trung bình của khu vực ASEAN.
Cũng đề cập thất nghiệp và việc làm, TS. Nguyễn Thị Lan Hương (Viện Khoa học lao động và xã hội) cảnh báo, chuyển dịch cơ cấu việc làm vẫn rất chậm và tỷ lệ việc làm có thu nhập thấp vẫn sẽ rất cao.
Bà Hương phân tích, năm 2014, nền kinh tế tạo ra 53 triệu việc làm, tăng 801.000 việc so với năm 2013 (tương đương 1,53%). Thời kỳ 2010-2014, bình quân mỗi năm thị trường tạo thêm được 879.000 việc làm (1,69%), cao hơn tốc độ tăng lực lượng lao động.
Sau hai năm trì trệ do khủng hoảng kinh tế, việc gia tăng số việc làm của nền kinh tế trong năm 2014 cho thấy những tác động của quá trình phục hồi nền kinh tế.
Dù vậy, thời kỳ 2010-2014, trái với xu thế tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân tháng từ công việc chính của lao động tăng rất chậm, chỉ tăng 0,5%/năm (đạt 4,362 triệu đồng/người/tháng).
Thu nhập bình quân tháng từ công việc chính của lao động nữ thấp hơn của lao động nam và khoảng cách chênh lệch tiền lương của nữ/nam có xu hướng gia tăng (từ 91,2% năm 2010 so với 90,5% năm 2014).
Tham luận của bà Hương cũng cho thấy nhiều con số đáng chú ý khác. Như, quý 2/2014, trong số những người làm công ăn lương, 18,6% có thu nhập thấp (dưới 2,7 triệu đồng/tháng).
Quý 4/2014, thu nhập bình quân tháng của lao động nhóm ngành “nông-lâm nghiệp và thủy sản” vẫn thấp nhất, chỉ đạt 2,852 triệu đồng/người/tháng, bằng 58% so với ngành “công nghiệp-xây dựng” (4,242 triệu đồng/người/tháng) và bằng 64% của nhóm ngành “dịch vụ” (4,907 triệu đồng/người/tháng).