Việt Nam đã có Luật Trưng cầu ý dân
Kết quả trưng cầu ý dân sẽ có giá trị quyết định đối với vấn đề đưa ra trưng cầu
Chiều 25/11, với 426 vị tán thành và 9 vị không tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật Trưng cầu ý dân. Đây là đạo luật mà Quốc hội đã "nợ" dân qua nhiều nhiệm kỳ.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý cho biết, có ý kiến đề nghị bổ sung trưng cầu ý dân về các vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân, về bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về chiến tranh và hòa bình.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội những vấn đề này đều đã nằm trong các quy định của Hiến pháp và như vậy là đã được thể hiện trong các nội dung trưng cầu ý dân về Hiến pháp. Các nội dung khác đã thuộc phạm vi các vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền quốc gia và kinh tế - xã hội
Mặt khác, khoản 4 điều 6 còn có quy định về “vấn đề đặc biệt quan trọng khác của đất nước”, nên không nhất thiết phải liệt kê quá chi tiết các vấn đề cần trưng cầu ý dân mà để Quốc hội căn cứ vào đề nghị của các chủ thể có thẩm quyền xem xét, quyết định trưng cầu ý dân khi thấy cần thiết, Chủ nhiệm Lý giải trình.
Luật Trưng cầu ý dân quy định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất là 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định trưng cầu ý dân.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng như mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có quyền kiến nghị đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đến Chủ tịch nước, Chính phủ xem xét, đề nghị Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về những vấn đề mà mình thấy cần thiết, Chủ nhiệm Phan Trung Lý cho biết.
Theo quy định của luật, cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được ít nhất ba phần tư tổng số cử tri cả nước có tên trong danh sách cử tri đi bỏ phiếu.
Nội dung trưng cầu ý dân được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành có giá trị thi hành; đối với trưng cầu ý dân về Hiến pháp phải được hai phần ba số phiếu hợp lệ tán thành.
Trường hợp không đủ 3/4 tổng số cử tri đi bỏ phiếu thì cuộc trưng cầu ý dân này không thành công và theo quy định tại Điều 9 của dự thảo Luật thì “Không tổ chức lại việc trưng cầu ý dân về nội dung đã được trưng cầu ý dân trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày kết quả trưng cầu ý dân được công bố”, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích.
Theo quy định của luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có trách nhiệm báo cáo Quốc hội về kết quả trưng cầu ý dân tại kỳ họp gần nhất.
Căn cứ vào kết quả trưng cầu ý dân, Quốc hội quyết định các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện kết quả trưng cầu ý dân.
Quốc hội khẳng định, kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định đối với vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân và có hiệu lực kể từ ngày công bố.
Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng kết quả trưng cầu ý dân.
Gồm 8 chương 52 điều, Luật Trưng cầu ý dân có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016.
* Theo điều 6 của Luật Trưng cầu ý dân, Quốc hội xem xét, quyết định trưng cầu ý dân về các vấn đề sau đây:
1. Toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp;
2. Vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của quốc gia;
3. Vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước;
4. Vấn đề đặc biệt quan trọng khác của đất nước.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý cho biết, có ý kiến đề nghị bổ sung trưng cầu ý dân về các vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân, về bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về chiến tranh và hòa bình.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội những vấn đề này đều đã nằm trong các quy định của Hiến pháp và như vậy là đã được thể hiện trong các nội dung trưng cầu ý dân về Hiến pháp. Các nội dung khác đã thuộc phạm vi các vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền quốc gia và kinh tế - xã hội
Mặt khác, khoản 4 điều 6 còn có quy định về “vấn đề đặc biệt quan trọng khác của đất nước”, nên không nhất thiết phải liệt kê quá chi tiết các vấn đề cần trưng cầu ý dân mà để Quốc hội căn cứ vào đề nghị của các chủ thể có thẩm quyền xem xét, quyết định trưng cầu ý dân khi thấy cần thiết, Chủ nhiệm Lý giải trình.
Luật Trưng cầu ý dân quy định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất là 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định trưng cầu ý dân.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng như mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có quyền kiến nghị đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đến Chủ tịch nước, Chính phủ xem xét, đề nghị Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về những vấn đề mà mình thấy cần thiết, Chủ nhiệm Phan Trung Lý cho biết.
Theo quy định của luật, cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được ít nhất ba phần tư tổng số cử tri cả nước có tên trong danh sách cử tri đi bỏ phiếu.
Nội dung trưng cầu ý dân được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành có giá trị thi hành; đối với trưng cầu ý dân về Hiến pháp phải được hai phần ba số phiếu hợp lệ tán thành.
Trường hợp không đủ 3/4 tổng số cử tri đi bỏ phiếu thì cuộc trưng cầu ý dân này không thành công và theo quy định tại Điều 9 của dự thảo Luật thì “Không tổ chức lại việc trưng cầu ý dân về nội dung đã được trưng cầu ý dân trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày kết quả trưng cầu ý dân được công bố”, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích.
Theo quy định của luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có trách nhiệm báo cáo Quốc hội về kết quả trưng cầu ý dân tại kỳ họp gần nhất.
Căn cứ vào kết quả trưng cầu ý dân, Quốc hội quyết định các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện kết quả trưng cầu ý dân.
Quốc hội khẳng định, kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định đối với vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân và có hiệu lực kể từ ngày công bố.
Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng kết quả trưng cầu ý dân.
Gồm 8 chương 52 điều, Luật Trưng cầu ý dân có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016.
* Theo điều 6 của Luật Trưng cầu ý dân, Quốc hội xem xét, quyết định trưng cầu ý dân về các vấn đề sau đây:
1. Toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp;
2. Vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của quốc gia;
3. Vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước;
4. Vấn đề đặc biệt quan trọng khác của đất nước.