Vụ án khai thác, buôn lậu đất hiếm hơn 379 tỷ đồng là “đặc biệt nghiêm trọng”
Viện kiểm sát xác định đây là vụ án “đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến hoạt động khai thác, kinh doanh, xuất khẩu và quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản”...

Viện kiểm sát nhân dân Tối cao vừa ban hành cáo trạng truy tố 27 bị can trong vụ án khai thác trái phép đất hiếm ở Yên Bái.
Trong đó, bị can Lưu Anh Tuấn, Chủ tịch HĐQT Công ty Đất hiếm Việt Nam, bị truy tố về tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng và tội Buôn lậu.
Bị can Đoàn Văn Huấn, Chủ tịch Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Dương, bị truy tố về tội Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên, Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng và Gây ô nhiễm môi trường.
Theo cáo buộc, bị can Đào Văn Huấn đã chỉ đạo khai thác trái phép quặng đất hiếm, quặng sắt tại mỏ đất hiếm Yên Phú với tổng giá trị hơn 864 tỷ đồng, thu lời bất chính hơn 736 tỷ đồng.
Sau khi khai thác đất hiếm, Công ty Thái Dương bán quặng hiếm, quặng sắt cho Công ty Đất hiếm Việt Nam. Ông Đoàn Văn Huấn thỏa thuận với bị can Lưu Anh Tuấn, về việc xuất hóa đơn với giá bán, số lượng thấp hơn thực tế để giảm số thuế phải nộp.
Giai đoạn 2019-2023, Công ty Thái Dương bán cho Công ty cổ phần Đất hiếm Việt Nam hơn 3,5 triệu kg quặng đất hiếm với số tiền thanh toán hơn 142 tỷ đồng.
Tuy nhiên, Công ty Thái Dương chỉ xuất 3 hóa đơn và kê khai thuế đối với hơn 765.000kg, trị giá ghi trên hóa đơn là 10,7 tỷ đồng. Chênh lệch giữa đơn giá mua bán thực tế và giá bán ghi trên hóa đơn là hơn 26.000 đồng/kg.
Số tiền ghi trên hóa đơn, Công ty Đất hiếm Việt Nam thanh toán vào tài khoản Công ty Thái Dương. Số tiền ngoài hóa đơn thì chuyển cho các cá nhân tại Công ty Thái Dương bằng tiền mặt. Sau đó, ông Huấn chỉ đạo cấp dưới để ngoài sổ sách kế toán, không kê khai nộp thuế.
Năm 2022, doanh thu và lợi nhuận của công ty tăng cao do xuất khẩu tổng ôxit đất hiếm với thuế suất 0% trong khi nguồn nguyên liệu mua vào phần lớn không có hóa đơn.
Để hạch toán giảm doanh thu, ông Tuấn đã chỉ đạo nhân viên liên hệ để lấy 15 hóa đơn trị giá hơn 16 tỷ đồng mua bán hóa chất từ các công ty thường xuyên cung cấp hóa chất cho Công ty Đất hiếm Việt Nam, gồm Công ty Song Mã, Công ty Kim Ngưu, Công ty Minh Tiến.
Tiếp đó, để hợp thức hóa các giao dịch trên, ông Tuấn ký vào lệnh chuyển tiền cho các công ty trên. Sau khi nhận được tiền, các công ty này giữ lại tiền thuế và các chi phí liên quan, phần còn lại chuyển trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản vào các tài khoản cá nhân của Công ty Đất hiếm Việt Nam.
Cơ quan điều tra xác định Công ty Đất hiếm Việt Nam sử dụng 14/15 hóa đơn để kê khai vào chi phí được trừ khi quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2022, gây thiệt hại về thuế hơn 4 tỷ đồng.
Sau khi mua hơn 3,5 triệu kg đất hiếm từ Công ty Thái Dương, ông Tuấn chỉ đạo nhân viên chế biến quặng và đã thu được 482.000kg tổng oxit đất hiếm hàm lượng TREO trên 95%.
Liên quan đến vụ án này, một số cán bộ nhà nước đã cố ý làm trái nguyên tắc, điều kiện cấp giấy phép khai thác quặng đất hiếm cho Công ty Thái Dương.
Tiếp đó, ông Tuấn chỉ đạo cấp dưới thực hiện thủ tục xuất khẩu gần 474.000kg đất tổng oxit đất hiếm hàm lượng TREO trên 95% cho các công ty Alconix (Nhật Bản), Polyfer (Áo), Jiangsu (Trung Quốc) thông qua 63 tờ khai hải quan với tổng giá trị hơn 379 tỷ đồng.
Quá trình xuất khẩu, ông Tuấn cùng nhân viên có nhiều sai phạm, xuất khẩu khi không đủ điều kiện, khai báo sai mã hàng hóa. Trong đó, từ năm 2019-2021, Công ty này xuất khẩu đất hiếm chưa tinh luyện thành Bột oxi đất hiếm riêng rẽ.
Khi thực hiện thủ tục hải quan để xuất khẩu, ông Tuấn còn chỉ đạo nhân viên thực hiện khai báo hải quan loại hình xuất khẩu mã E62 là loại hàng hóa xuất khẩu được sản xuất toàn bộ từ nguyên liệu nhập khẩu.
Từ đó, hợp thức nguyên liệu đầu vào là nguyên liệu nhập khẩu, lập báo cáo quyết toán hải quan không đúng, nhằm che giấu số quặng đất hiếm đã mua của Công ty Đất hiếm Việt Nam.
Ngoài ra, ông Tuấn cũng chỉ đạo nhân viên chỉnh sửa số liệu hợp đồng, hóa đơn nhập khẩu nguyên liệu để cân đối, phù hợp với báo cáo hải quan về số nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu.
Quá trình điều tra, các bị can đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cả, hợp tác điều tra để làm rõ bản chất vụ án. Nhiều bị can đã tự nguyện khắc phục một phần hậu quả từ hành vi phạm tội.
Bên cạnh đó, trong vụ án này có nhiều bị can thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm, là người làm công, hưởng lương, thực hiện sai phạm theo chỉ đạo của lãnh đạo doanh nghiệp.
Vì vậy, quá trình xét xử cần phân hóa vị trí, vai trò, tính chất, mức độ, hậu quả thiệt hại từ hành vi phạm tội của các bị can.