Hà Nội phân cấp trách nhiệm quản lý, thu phí bảo vệ môi trường nước thải và khí thải, kiểm soát nguồn thải
Thành phố Hà Nội quy định cụ thể phân cấp, phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên địa bàn trong các lĩnh vực: Thu phí bảo vệ môi trường với nước thải, khí thải công nghiệp; kiểm soát nguồn thải, nguồn ô nhiễm môi trường; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường...

UBND thành phố Hà Nội vừa ban hành Quyết định số 47/2025/QĐ-UBND quy định phân cấp, phân công trách nhiệm trong lĩnh vực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên địa bàn.
Đối tượng áp dụng gồm cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp, trong đó cấp thành phố là Sở Nông nghiệp và Môi trường; cấp xã là Phòng Kinh tế, phường là Phòng Kinh tế, hạ tầng và Đô thị; UBND các xã, phường; các tổ chức, cá nhân có liên quan; Ban Quản lý các khu công nghệ cao và khu công nghiệp thành phố Hà Nội thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trực tiếp đối với các khu công nghệ cao và khu công nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
Theo Quyết định 47, thẩm quyền quản lý của Sở Nông nghiệp và Môi trường, gồm: nguồn thải, nguồn ô nhiễm môi trường từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc đối tượng phải có giấy phép môi trường quy định tại Điều 39, Điều 41 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và khoản 1 Điều 26 Nghị định số 131/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ.
Quyết định số 47/2025/QĐ-UBND quy định phân cấp, phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên địa bàn Thành phố trong các lĩnh vực: thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, khí thải công nghiệp; kiểm soát nguồn thải, nguồn ô nhiễm môi trường; kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bảo vệ môi trường và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Thẩm quyền quản lý của UBND cấp xã gồm: các nguồn thải, nguồn ô nhiễm môi trường từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn gồm: các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc đối tượng đăng ký môi trường theo quy định tại Điều 49 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và khoản 1 Điều 29 Nghị định số 131/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ; các cơ sở hoạt động trong cụm công nghiệp; các cơ sở y tế (không bao gồm bệnh viện), trường học;
Cùng với đó là các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy mô hộ gia đình, cá nhân tại khu vực nông thôn; các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại khu vực làng nghề; các khu vực công cộng: công viên, khu vui chơi, giải trí, khu kinh doanh, dịch vụ tập trung, chợ, nhà ga, bến xe, bến tàu, bến cảng, bến phà, nhà hàng (không bao gồm khách sạn). Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy mô hộ gia đình, cá nhân có phát sinh nước thải được xả trực tiếp vào môi trường nước mặt, bao gồm: sông, suối, ao, hồ, kênh, mương trong phạm vi địa bàn 1 xã, phường.

Trường hợp nguồn thải, nguồn ô nhiễm môi trường từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phạm vi địa bàn nằm từ 2 xã, phường trở lên thì đối tượng quản lý được phân cấp như trên; thẩm quyền quản lý thuộc UBND cấp xã được xác định thuộc một trong các trường hợp sau theo trật tự ưu tiên: UBND cấp xã nơi tiếp nhận đăng ký môi trường của cơ sở; UBND cấp xã theo địa điểm đăng ký hoạt động của cơ sở; UBND cấp xã nơi có vị trí xả thải nước thải của cơ sở vào môi trường tiếp nhận.
Liên quan đến cơ chế phối hợp trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát nguồn thải, nguồn ô nhiễm môi trường, Quyết định nêu rõ, việc kiểm tra, kiểm soát nguồn thải, nguồn ô nhiễm môi trường; tiếp nhận thông tin cảnh báo về chất lượng môi trường tại địa phương phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn cấp Thành phố, giữa các cơ quan chuyên môn cấp Thành phố với cấp xã và giữa các cơ quan chuyên môn cấp xã trong quá trình giải quyết công việc; đảm bảo không chồng chéo, không làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ bình thường của tổ chức, cá nhân theo quy định.
Cụ thể, Sở Nông nghiệp và Môi trường chủ trì kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bảo vệ môi trường với các đối tượng quản lý được phân cấp theo thẩm quyền và khi có kiến nghị của UBND cấp xã trong trường hợp vượt quá thẩm quyền giải quyết của cấp xã…
Đối với UBND cấp xã, thường xuyên theo dõi, giám sát và phát hiện kịp thời các nguồn thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường tại địa phương; chủ động xử lý theo thẩm quyền hoặc xử lý bước đầu (ngăn chặn nguy cơ lan tràn) các nguồn thải ngay khi phát hiện có nguy cơ xảy ra sự cố môi trường. Kịp thời thông tin, báo cáo đến Sở Nông nghiệp và Môi trường để chỉ đạo và phối hợp giải quyết trong trường hợp vượt thẩm quyền.
Cùng với đó, tổ chức kiểm tra, xác minh và xử lý các thông tin phản ánh về môi trường của cơ quan báo chí và người dân; kiểm tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bảo vệ môi trường trên địa bàn hoặc theo đề nghị của Sở Nông nghiệp và Môi trường.
UBND xã có thẩm quyền quản lý đối với đối tượng quy định, có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với UBND các xã, phường có liên quan để tổ chức kiểm tra, kiểm soát các nguồn thải, nguồn ô nhiễm môi trường nằm trên địa bàn liên xã, phường và thực hiện trách nhiệm của đơn vị chủ trì theo quy định.
Quyết định cũng nêu rõ, các trường hợp kiểm tra theo khiếu nại, tố cáo, kiến nghị hoặc phản ánh về môi trường của cơ quan báo chí, người dân được thực hiện theo quy trình kiểm tra đột xuất theo điểm a khoản 3 Điều 160 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong trường hợp tại cùng một thời điểm, có sự chồng chéo, trùng lặp giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra trên địa bàn; cơ quan tiến hành thanh tra và cơ quan thực hiện kiểm tra phối hợp để xử lý; trường hợp không thống nhất được thì cơ quan thanh tra tiến hành thanh tra.
Sở Nông nghiệp và Môi trường có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn UBND cấp xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tại quy định này; chỉ đạo và hướng dẫn chuyên môn, nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động bảo vệ môi trường; chỉ đạo và hướng dẫn ứng dụng công nghệ thông tin, AI để xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin, báo cáo về nguồn thải, nguồn ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, quy định cụ thể danh mục, tài liệu quản lý dạng bản điện tử được thực hiện lưu giữ trên hệ thống cơ sở dữ liệu, làm cơ sở thực hiện kiểm tra, giám sát theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.