Ngân hàng, công ty tài chính cần dừng việc cung cấp data khách hàng nợ
Sau các chuyên án vừa qua, Cục Cảnh sát hình sự đề nghị, các cơ quan chức năng cần vào cuộc quyết liệt, trong đó có sự hỗ trợ từ các ngân hàng, công ty tài chính dừng ngay việc cung cấp danh sách tên khách hàng đang có khoản nợ. Việc này gây ảnh hưởng đến uy tín khách hàng, dẫn đến hậu quả khôn lường...
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Hà Nội đã ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và quyết định tạm giữ hình về hành vi cưỡng đoạt tài sản đối với 31 đối tượng. Trong đó 7 đối tượng là lãnh đạo công ty; 3 tổ trưởng nhóm đòi nợ và 18 nhân viên đòi nợ.
LỘ, LỌT DATA KHÁCH HÀNG NỢ
Trước đó, ngày 20/2, lãnh đạo Cục Cảnh sát Hình sự đã giao Phòng Trọng án phối hợp với Công an TP Hà Nội, Công an TP HCM triệt phá băng nhóm tội phạm có tổ chức hoạt động đòi nợ bằng các thủ đoạn cực đoan, đòi nợ thuê núp bóng dưới nhiều công ty khác nhau, cưỡng đoạt tài sản với quy mô lớn, tại nhiều tỉnh, thành phố với rất đông đối tượng tham gia; hoạt động với phương thức, thủ đoạn rất tinh vi, có sự câu kết chặt chẽ, phân công chức năng, nhiệm vụ cho từng bộ phận, hoạt động dưới vỏ bọc là các công ty kinh doanh.
Để tránh sự phát hiện của các cơ quan công an, các đối tượng đã thành lập 7 công ty thuê 119 đối tượng, chia thành nhiều bộ phận khác nhau để thực hiện công việc thu nợ cho các công ty có nhu cầu. Theo đó, bộ phận lãnh đạo công ty gồm: Trần Hồng Tiến (SN 1974), trú tại quận 1, TP HCM là Giám đốc điều hành, quyết định mọi vấn đề của Công ty.
Bộ phận nhân sự do Nguyễn Thị Ái Vân (SN 1985), trú tại tỉnh Tiền Giang, làm Trưởng phòng, quản lý nhân viên; Huỳnh Thị Phượng (SN 1994), trú tại tỉnh Bình Thuận, có nhiệm vụ phỏng vấn, nhận hồ sơ của nhân viên xin việc, lập bảng chấm công, làm các giấy tờ gửi xe, thẻ ngân hàng... cho các nhân viên công ty.
Bộ phận kế toán do Võ Thị Cẩm Vân (SN 1984), làm Kế toán trưởng, quản lý 1 nhân viên kế toán có nhiệm vụ là tính tiền lương cho nhân viên và nhận, tổng hợp biên lai khách hàng trả tiền trực tiếp tại văn phòng do nhân viên công ty chuyển đến. Ngoài ra, Cẩm Vẫn còn ký thông báo về kết thúc khoản vay sau khi khách hàng trả tiễn (Vân ký thay cho Trần Hồng Tiến).
Bộ phận vận hành Accout (phụ trách dữ liệu “data” thông tin khách hàng) do Nguyễn Thị Kim Trâm (SN: 1975), làm Trưởng bộ phận, quản lý 1 nhân viên có nhiệm vụ quản lý, chia dữ liệu “data” vào các tài khoản của nhân viên đòi nợ. In các hồ sơ, tài liệu của khách hàng cho nhân viên khi có khách hàng trực tiếp đến văn phòng thanh toán khoản tiền nợ.
Bộ phận kỹ thuật (IT) do Phạm Văn Sơn (SN 1987), làm Trưởng phòng. Bộ phận thu hồi nợ do Nguyễn Đức Khoa (SN 1992) làm Phó phòng, quản lý 103 nhân viên, trong đó: 11 đối tượng là tổ trưởng và 92 nhân viên. Nhiệm vụ của nhóm này là gọi điện thoại theo thông tin data khách hàng được cung cấp trong mỗi tài khoản để đòi tiền khách trả tiền nợ.
Mỗi tháng công ty sẽ cấp cho nhân viên truy thu khoảng 500 hợp đồng (thông tin khách hàng) để đòi khoản nợ khách vay. Đối tượng Tiến, Khoa giao cho mỗi nhóm phải đòi nợ được số tiền là 300 triệu đồng, nếu 2 tháng liên tiếp không đòi được đủ số tiền trên thì sẽ bị đuổi việc nên các đối tượng là trưởng nhóm luôn đôn đốc nhân viên tích cực đòi nợ bằng thủ đoạn nêu trên để đạt được doanh số.
Cục Cảnh sát hình sự cho biết, Công ty TNHH Mua Bán Nợ DSP mua các khoản nợ mà khách hàng đã vay của Công ty tài chính TNHH MTV Mirae Asset Việt Nam và một số tổ chức tín dụng khác nhưng không có khả năng trả với giá bằng 12-15% giá trị của tổng số tiền khách nợ.
Sau khi có các thông tin khách hàng và các thông tin khoản nợ từ Công ty Mirae Asset, Bộ phận vận hành (Accout) sẽ cập nhật các thông tin khoản vay của khách hàng vào hệ thống riêng của công ty.
Tiếp theo sẽ phân chia vào từng tài khoản của nhân viên bộ phận truy thu, để họ trực tiếp đòi nợ bằng cách gọi điện thoại yêu cầu khách hàng, hoặc gọi điện để gây sức ép đến khách hàng thông qua người thân, đồng nghiệp khách hàng, bằng thủ đoạn: Sử dụng nhiều số điện thoại khác nhau liên tục gọi điện, nhắn tín chửi bới, đe dọa người thân, đồng nghiệp của khách, mặc dù họ không liên quan gì đến khoản vay của khách hàng, mục đích để tạo sức ép cho những người liên quan đến cuộc sông, công việc buộc khách hàng phải trả nợ khoản vay.
Các đối tượng còn cắt ghép hình ảnh khách hàng, người thân khách hàng vào các hình ảnh đồi trụy, các thông tin không đúng sự thật. Sau đó tạo lập, dùng các “tài khoản ảo” đăng tải, bình luận lên mạng xã hội nhằm bôi nhọ danh dự, tạo sức ép buộc khách hàng phải trả tiền.
Trong trường hợp khách đồng ý trả tiền, thì có thể trả tiền trực tiếp tại văn phòng hoặc chuyển khoản vào 4 tài khoản của công ty. Lúc đó, nhân viên truy thu sẽ gửi thông tin báo lại cho bộ phận kế toán, để họ cập nhật vào dữ liệu truy thu của từng cá nhân, từng nhóm. Khi khách hàng trả nợ xong thì công ty sẽ ký thông báo kết thúc khoản nợ gửi cho khách hàng.
Quá trình thi hành lệnh khám xét khẩn cấp tại các công ty trên địa bàn TP HCM, cơ quan Công an đã triệu tập được 102 đối tượng về trụ sở Cục Cảnh sát hình sự khu vực phía Nam để đấu tranh làm rõ; thu giữ số tiền 593.000.000 đồng; 101 cây máy tính; 6 laptop; 216 điện thoại và nhiều thùng tài liệu liên quan.
Kết quả kiểm tra, trích xuất dữ liệu từ hệ thống quản trị của các công ty: Từ ngày 2/7/2018 đến hết năm 2022, các công ty trên đã thụ mua 335.607 hợp đồng vay tiền của khách có tổng dư nợ là trên 3 nghìn tỷ đồng, trong đó các đối tượng đã đòi được tổng số tiền trên 500 tỷ đồng.
NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN ĐÒI NỢ THUÊ
Theo Cục Cảnh sát hình sự, phương thức, thủ đoạn hoạt động, cấu trúc của các ổ nhóm tội phạm hoạt động dưới vỏ bọc là các công ty kinh doanh, phương thức kết nối với các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp với người bị hại, để nhận diện trong giai đoạn hiện nay đối với các loại tội phạm này đang chuyển đổi từ tội phạm truyền thống kết hợp tội phạm công nghệ cao…
Việc đấu tranh khám phá chuyên án trên đã thể hiện nghiêm túc chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Công an và Chuyên đề 231 “Đấu tranh, phòng chống tội phạm tín dụng đen”.
Thời gian qua, dịch vụ đòi nợ thuê bị biến tướng, nhiều cá nhân, tổ chức đòi nợ thuê lợi dụng việc đăng ký kinh doanh ngành nghề này để hoạt động đòi nợ bằng các biện pháp trái pháp luật, trong đó nguy hại và phổ biến nhất là hành vi cưỡng đoạt tài sản của người bị cho là mắc nợ. Vì lý do đó, theo Điều 6 Luật Đầu tư năm 2020, dịch vụ này đã bị cấm.
Qua đó, các hợp đồng cung cấp dịch vụ đòi nợ được ký kết trước ngày 1/1/2021 phải thanh lý, doanh nghiệp đang được cấp phép kinh doanh dịch vụ đòi nợ có thể giải thể hoặc phải chuyển đổi sang ngành nghề kinh doanh khác.
Như vậy, bất cứ doanh nghiệp, đơn vị nào núp bóng dưới danh nghĩa công ty bảo vệ, tư vấn luật, mua bán nợ, ủy quyền đòi nợ, sử dụng nhân viên đòi nợ thuê liên kết với doanh nghiệp, cơ sở cho vay để thực hiện hoạt động đòi nợ thuê như Công ty Luật TNHH Pháp Việt, Công ty TNHH Mua Bán Nợ DSP là trái pháp luật và bị nghiêm cấm.
Tổ chức, cá nhân nào phát hiện cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ thì có thể tố cáo đến cơ quan chức năng có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.