Phát huy giá trị các Khu dự trữ sinh quyển Thế giới của Việt Nam
Việt Nam đã có 11 Khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận, chỉ đứng sau Indonesia về số lượng các Khu dự trữ sinh quyển tại khu vực Đông Nam Á. Quản lý bền vững các Khu dự trữ sinh quyển Thế giới ở Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm từ các bên liên quan, trong đó có UNDP và Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) trong các nỗ lực hỗ trợ bảo tồn…
Nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế về Khu dự trữ sinh quyển, ngày 3/11, Ủy ban Quốc gia Chương trình Con người và Sinh quyển Việt Nam (MAB Việt Nam) và Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học (Bộ Tài nguyên và Môi trường), với sự hỗ trợ của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) Việt Nam đã tổ chức Hội nghị thường niên Mạng lưới các Khu dự trữ sinh quyển Thế giới của Việt Nam và Hội thảo khoa học về “Phát huy giá trị các Khu dự trữ sinh quyển Thế giới của Việt Nam phục vụ phát triển bền vững”.
ĐIỀU HÒA KHÍ HẬU VÀ BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC
Theo Ủy ban Quốc gia Chương trình Con người và Sinh quyển Việt Nam, tính đến nay, Việt Nam đã có 11 Khu dự trữ sinh quyển, chỉ đứng sau Indonesia về số lượng các Khu dự trữ sinh quyển tại khu vực Đông Nam Á.
Kết cấu sinh thái của các Khu dự trữ sinh quyển này là điều kiện không thể thiếu đối với cuộc sống của không chỉ hàng triệu người dân Việt Nam mà còn của vô số các loài động thực vật đặc hữu. Việc thúc đẩy vai trò và giá trị của chúng trong việc điều hòa khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học và sự chung sống hài hòa giữa con người và thiên nhiên có tầm quan trọng đặc biệt trong việc hoạch định chính sách quốc gia.
“Khu dự trữ sinh quyển” là khái niệm được UNESCO đưa ra năm 1971, nhằm công nhận và thiết lập các khu vực rộng lớn có cảnh quan thiên nhiên, giá trị đa dạng sinh học, văn hóa cao bao gồm trong đó các hệ sinh thái quan trọng trên cạn, vùng đất ngập nước, biển, ven biển… Khu dự trữ sinh quyển là “nơi học tập để phát triển bền vững”, nơi thử nghiệm các phương pháp tiếp cận liên ngành để tìm hiểu và quản lý những thay đổi cũng như các tương tác giữa các hệ thống sinh thái và xã hội, bao gồm việc ngăn ngừa xung đột trong công tác quản lý đa dạng sinh học. Đây là một mô hình về sự chung sống hài hòa giữa con người và thiên nhiên, trong đó việc bảo tồn thiên nhiên đi đôi với phát triển đời sống kinh tế xã hội bền vững cho cộng đồng địa phương.
Hội nghị thường niên Mạng lưới các Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới của Việt Nam là dịp để 11 Khi dự trữ sinh quyển thế giới của Việt Nam nhìn lại một năm hoạt động, rút ra những bài học kinh nghiệm cũng như cùng nhau định hướng hoạt động cho giai đoạn tiếp theo.
Theo GS.TS. Nguyễn Hoàng Trí, Chủ tịch MAB Việt Nam, trong những năm tới, Mạng lưới các Khu dự trữ sinh quyển Thế giới của Việt Nam định hướng xây dựng khung cơ cấu quản lý thống nhất, phát triển nhãn sinh thái Khu dự trữ sinh quyển quốc gia, thúc đẩy du lịch sinh thái, kinh tế xanh và phát triển sinh kế cho người dân địa phương nhằm góp phần giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu.
NHIỀU SÁNG KIẾN VỀ KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN TẠI VIỆT NAM
Phát biểu tại sự kiện, bà Hoàng Thị Thanh Nhàn – Phó Cục trưởng, Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, cho biết việc quản lý hiệu quả các Khu dự trữ sinh quyển thế giới đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, thông qua việc thúc đẩy các sáng kiến mới để phát triển kinh tế, đồng thời đảm bảo tính bền vững về mặt xã hội, văn hóa và môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường đang nỗ lực xây dựng các chính sách và khung pháp lý để tăng cường hơn nữa việc quản lý các Khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam.
“Đã có rất nhiều sáng kiến, mô hình và các thành công trong việc bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên được triển khai và nhân rộng trên khắp các Khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam. Mạng lưới các Khu dự trữ sinh quyển thế giới của Việt Nam đã và đang đóng góp tích cực vào việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững tại Việt Nam”, bà Nhàn nhấn mạnh.
Quản lý bền vững các Khu dự trữ sinh quyển Thế giới ở Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm đáng kể từ các bên liên quan, trong đó có UNDP và Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) với các đóng góp quan trọng trong các nỗ lực này. Trọng tâm của các hỗ trợ này là thúc đẩy khả năng phục hồi môi trường và hỗ trợ sinh kế địa phương trước những thách thức ngày càng gia tăng do biến đổi khí hậu.
Theo chuyên gia tại hội nghị, Dự án "Lồng ghép quản lý tài nguyên thiên nhiên và các mục tiêu về bảo tồn đa dạng sinh học vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và quản lý các khu dự trữ sinh quyển ở Việt Nam " (Dự án BR), do Bộ Tài nguyên và Môi trường và UNDP thực hiện, nhằm thúc đẩy việc quản lý tổng hợp các Khu dự trữ sinh quyển thế giới, cụ thể là ở các Khu dự trữ sinh quyển thể giới tại Miền Tây Nghệ An, Cù Lao Chàm-Hội An và Đồng Nai, đồng thời ưu tiên phục hồi 4.000 ha rừng bị suy thoái và quản lý bền vững 60.000 ha các khu vực dành riêng (là các khu vực nằm ngoài Khu bảo tồn, có giá trị cao về đa dạng sinh học).
Đáng chú ý, dự án trực tiếp hỗ trợ để cải thiện sinh kế cho 2.500 hộ gia đình địa phương, đặc biệt chú trọng sự tham gia của phụ nữ, chiếm 40% số người hưởng lợi, vào các hoạt động của dự án.
Đại diện UNDP chia sẻ, “Sáng kiến “Thập kỷ phục hồi hệ sinh thái của Liên Hợp Quốc” và gần đây là Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh-Montreal đã đặt ra những mục tiêu về bảo tồn thiên nhiên và phục hồi hệ sinh thái đầy tham vọng.
Trong bối cảnh đó, UNDP tiếp tục đặt bảo tồn thiên nhiên làm trung tâm trong các chương trình phát triển của mình, thông qua sáng kiến Nature Pledge, để mở rộng quy mô và đẩy nhanh các hành động cần thiết, nhằm đóng góp vào việc đạt được các mục tiêu toàn cầu về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
UNDP tại Việt Nam đã và đang hỗ trợ thúc đẩy cải thiện quản lý các Khu dự trữ sinh quyển và các Khu bảo tồn, huy động tài chính cho đa dạng sinh học, du lịch dựa vào thiên nhiên và các hoạt động khác.