
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Năm, 09/10/2025
Thanh Thủy
01/07/2023, 17:31
Lao động có việc làm có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động phát triển chưa bền vững khi số lao động có việc làm phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng cao…
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý 2/2023 và 6 tháng đầu năm của Tổng Cục Thống kê cho thấy, lực lượng lao động có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động, việc làm tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức chủ yếu do các doanh nghiệp thiếu đơn hàng sản xuất.
Theo báo cáo của Tổng Cục Thống kê, trong quý 2/2023, lao động có việc làm ước tính là 51,2 triệu người, tăng 83,3 nghìn người so với quý trước và tăng 691,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, khu vực thành thị là 19 triệu người, tăng 65,2 nghìn người so với quý trước và tăng 323,7 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; khu vực nông thôn là 32,2 triệu người, tăng 18 nghìn người so với quý trước và tăng 367,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo khu vực kinh tế, lao động có việc làm quý 2/2023 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 13,8 triệu người, chiếm 27%; khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,1 triệu người, chiếm 33,3%; ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; khu vực dịch vụ là 20,3 triệu người, chiếm 39,7%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, lao động có việc làm là 51,2 triệu người, tăng 902 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo khu vực kinh tế, lao động có việc làm 6 tháng đầu năm 2023 trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là 13,8 triệu người, chiếm 27% ; khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,2 triệu người, chiếm 33,6%; khu vực dịch vụ là 20,1 triệu người, chiếm 39,4%.
Tuy nhiên, số lao động có việc làm phi chính thức chung quý 2/2023 chiếm tỷ trọng lớn với 33,3 triệu người, chiếm 65,1% trong tổng số lao động có việc làm và tăng 301,9 nghìn người so với quý trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 64,8%, giảm 1,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Lý giải về nguyên nhân, Tổng Cục Thống kê cho biết chủ yếu do nhiều doanh nghiệp công nghiệp cắt giảm lao động nên lao động có xu hướng chuyển dịch sang khu vực dịch vụ và chấp nhận làm công việc ít ổn định hơn.
“Lao động có việc làm có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động phát triển chưa bền vững khi số lao động có việc làm phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức tăng lên ở hầu hết các vùng kinh tế - xã hội”, Tổng Cục Thống kê cho biết thêm.
Tình trạng nhiều doanh nghiệp ở các ngành nghề thiếu đơn hàng diễn ra từ quý 4/2022 và tiếp tục kéo dài sang quý 2/2023, dẫn đến hàng trăm nghìn người lao động bị giảm giờ làm, mất việc làm, ảnh hưởng tới đời sống của người lao động.
Tuy nhiên, theo Tổng Cục Thống kê, số lượng người lao động thất nghiệp quý 2 tăng cả về số lượng và tỉ lệ so với quý trước, nhưng điểm đáng mừng là tỉ lệ này giảm so với cùng kỳ năm 2022.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý 2/2023 là 2,3%, tăng 0,05 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,02 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 2,75%; khu vực nông thôn là 2,01%.
Trong quý 2/2023, Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ là hai vùng có tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động cao nhất cả nước, tương ứng là 2,65% và 2,64%.
Theo báo cáo từ các địa phương, số lao động nghỉ giãn việc của các doanh nghiệp trên cả nước trong quý 2 năm nay khoảng 241,5 nghìn người, giảm 52,5 nghìn người so với quý trước, chủ yếu là lao động ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 84,1%), tập trung ở ngành da giày với 66,3% và dệt may với 14,4%.
Một số địa phương có số lao động nghỉ giãn việc cao như: Bắc Giang (9.300 người), Bình Dương (9.800 người), Quảng Ngãi (10.300 người), Tiền Giang (11.900 người), Bình Phước (17.000 người), Ninh Bình (19.800 người), Thanh Hóa (98.300 người).
Tính chung 6 tháng đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước khoảng 2,27%, giảm 0,12 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực thành thị là 2,71%; khu vực nông thôn là 2%.
Hệ lụy của tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm gia tăng là tỉ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng đang có dấu hiệu tăng trở lại. Trước đó, tỷ lệ này đã tăng rất nhanh từ thời điểm quý 1/2020 và đạt mức cao kỷ lục là 10,4% vào quý III/2021 do ảnh hưởng của dịch Covid-19.
Báo cáo cho thấy, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng của Việt Nam thường dao động ở mức 4%. Tuy nhiên, tỷ lệ này có dấu hiệu tăng trở lại vào quý 1/2023 ở mức 4,5% và giữ mức 4,3% vào quý 2/2023 (tương ứng với khoảng 2,2 triệu người). Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, số lao động không sử dụng hết tiềm năng là 2,3 triệu người, giảm gần 0,5 triệu người so với cùng kỳ năm trước
Theo Tổng Cục Thống kê, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là chỉ tiêu tổng hợp cho biết mức độ “lệch pha” giữa cung và cầu lao động trên thị trường, phản ánh tình trạng dư cung về lao động.
“Đa số lao động không sử dụng hết tiềm năng là những người từ 15-34 tuổi (51,7%). Điều này cho thấy Việt Nam vẫn còn một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động tiềm năng chưa được khai thác, đặc biệt là nhóm lao động trẻ”, Tổng Cục Thống kê cho biết thêm.
Theo báo cáo Giám sát việc làm trên thế giới tháng 5/2023, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các cú sốc và rủi ro toàn cầu đang kìm hãm sự phục hồi của thị trường lao động, đặc biệt là ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.
Do đó, để ổn định và củng cố thị trường lao động, cần có các chính sách, biện pháp để giải quyết những khó khăn, thách thức hiện nay để tránh những tác động tiêu cực kéo dài đến tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Các động lực tăng trưởng truyền thống có nhiều điểm đã bắt đầu tới hạn, Việt Nam phải có mô hình tăng trưởng mới. Điều này cũng đặt ra vấn đề cần phải làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, tăng cường năng lực nội tại; đồng thời, có các động lực tăng trưởng mới, mô hình kinh tế mới và những giải pháp đột phá. Đặc biệt, yếu tố để tăng cường nội lực của nền kinh tế phải đến từ các doanh nghiệp trong nước. Tại phiên thảo luận trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế mới 2025 (Vietnam New Economy 2025) với chủ đề “Sức bật kinh tế Việt Nam: từ nội lực đến chuỗi giá trị toàn cầu” vừa diễn ra, các chuyên gia, lãnh đạo các doanh nghiệp đã cùng chia sẻ, thảo luận, kiến nghị nhiều giải pháp quan trọng nhằm phát huy năng lực nội tại của đất nước và các doanh nghiệp, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, khai mở các mô hình kinh tế mới, động lực tăng trưởng mới để tạo sức bứt bật cho nền kinh tế, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng, phát triển.
Với việc số hóa quy trình vận hành qua sáng kiến “sân bay không giấy tờ” và xây dựng hạ tầng trọng điểm với siêu dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, hàng không Việt Nam đang từng bước hiện thực hóa mục tiêu trở thành một trung tâm hàng không tiên tiến và năng động nhất khu vực Đông Nam Á…
Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin cậy, là điểm đến an toàn, hấp dẫn cho cộng đồng doanh nghiệp nói chung và lĩnh vực logistics nói riêng. Bạn bè quốc tế sẽ có thêm niềm tin với Việt Nam, niềm tin để cùng hợp tác phát triển ngành logistics nhanh, xanh, số và bền vững…
Khoảng 5 triệu hộ kinh doanh trên cả nước sẽ chuyển sang hình thức tự khai từ năm 2026. Chính sách mới được kỳ vọng tăng tính minh bạch và công bằng trong quản lý thuế, song vẫn bộc lộ không ít trở ngại, từ hạ tầng công nghệ, kỹ năng số cho đến tâm lý e ngại thay đổi của người nộp thuế…
Nông nghiệp chiếm vị thế quan trọng, là trụ cột cho nền kinh tế Việt Nam, giữ vai trò duy trì an ninh lương thực - thực phẩm, từng bước khẳng định vị thế quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước, bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: