Thúc đẩy ngành công nghiệp vươn tầm, tự chủ trong kỷ nguyên số
Ngành công nghiệp Việt Nam vẫn sản xuất gia công là chính, xuất khẩu vẫn ẩn dưới thương hiệu của nhiều tập đoàn đa quốc gia, hơn 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thuộc về FDI. Để có nền công nghiệp tự chủ, có những tập đoàn công nghiệp toàn cầu, Việt Nam cần đổi mới công nghệ và sáng tạo, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển...

Tại hội thảo “Tăng tốc chuyển đổi, hiệp lực thúc đẩy phát triển nền công nghiệp Việt Nam tự chủ - hùng cường”, ông Chu Việt Cường, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương, nhận định ngành công nghiệp Việt Nam đang bước vào một giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và áp lực phải tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong Chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, năng lực tự chủ sản xuất và khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu được xác định là yếu tố sống còn, để Việt Nam không chỉ là nơi gia công mà trở thành trung tâm sản xuất công nghệ cao của khu vực.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ông Cường thẳng thắn cho rằng ngành công nghiệp nước ta vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, như năng lực sản xuất trong nước còn phân tán, thiếu tính hệ thống; tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành còn thấp; phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu máy móc, nguyên vật liệu; khó khăn trong tiếp cận công nghệ nguồn và liên kết với các doanh nghiệp FDI lớn; thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao và hệ thống đào tạo chuyên ngành phù hợp.
TỶ LỆ NỘI ĐỊA HÓA THẤP, PHỤ THUỘC VÀO NHẬP KHẨU
Theo TS. Lương Minh Huân, Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), một nền công nghiệp tự chủ gắn liền với việc tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, phải xây dựng được chuỗi cung ứng nội địa vững chắc. Điều này không chỉ giúp nền kinh tế giảm phụ thuộc, mà còn mở ra cơ hội cho doanh nghiệp Việt từng bước làm chủ công nghệ, thị trường và nâng cao giá trị gia tăng.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát triển công nghiệp trong nước, Chính phủ đã có nhiều chính sách khuyến khích, song đến nay, tỷ lệ nội địa hóa ở nhiều ngành vẫn còn thấp. Trong những lĩnh vực như điện tử, vốn có giá trị xuất khẩu cao nhưng tỷ lệ nội địa hóa thực chất chỉ ở mức khoảng 15%, thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đề ra là 45% vào năm 2020.
“Nhiều doanh nghiệp trong nước chủ yếu tham gia vào các khâu lắp ráp, gia công đơn giản và còn phụ thuộc nặng vào linh kiện, nguyên vật liệu nhập khẩu”, ông Huân nêu thực tế; đồng thời, ông Huân cho biết nhiều số liệu nội địa hóa hiện nay được tính cả phần do doanh nghiệp FDI sản xuất tại Việt Nam. Đây không phải là nội địa hóa thực sự, bởi phần lớn các doanh nghiệp nội địa vẫn chưa thực sự làm chủ được công nghệ, thiết kế hay cung ứng vật tư đầu vào.
Dẫn chứng với ngành điện tử, bà Đỗ Thị Thúy Hương, Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam, chia sẻ Việt Nam đang nổi lên như một điểm đến hấp dẫn trong chuỗi cung ứng bán dẫn, được nhiều tập đoàn toàn cầu như Intel, Samsung, Qualcomm, Amkor lựa chọn nhờ chi phí lao động cạnh tranh, môi trường chính trị - xã hội ổn định và hệ thống các Hiệp định thương mại tự do (FTA) rộng khắp.
Hiện tại, Việt Nam đang tập trung vào các khâu lắp ráp, đóng gói và kiểm thử, đã có xu hướng chuyển dịch sang thiết kế vi mạch - lĩnh vực chiếm giá trị cao trong ngành bán dẫn. Tuy nhiên, thách thức đối với ngành công nghiệp này là hiện Việt Nam chưa có nhà máy chế tạo chip (fab) đạt chuẩn quốc tế, mà mới chỉ dừng ở đóng gói và kiểm thử, như các nhà máy của Intel tại TP.HCM hay Amkor tại Bắc Ninh.
Bên cạnh đó, hạ tầng sản xuất chưa đạt chuẩn quốc tế, thiếu các yếu tố như: Nhà máy chế tạo, phòng sạch, phòng thí nghiệm R&D chuyên sâu, hệ thống kiểm định chất lượng. Việt Nam đứng thứ 71/132 quốc gia về hạ tầng, cho thấy khoảng cách lớn với yêu cầu thực tế của ngành. Các doanh nghiệp hiện tại phần lớn phục vụ FDI, còn doanh nghiệp nội địa, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu điều kiện tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
TẬP TRUNG PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP TRỤ CỘT
Đối với ngành cơ khí, PGS.TS. Lê Kỳ Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI), cho rằng đây là ngành nền tảng, cốt lõi của nền công nghiệp, giữ vai trò then chốt trong việc chế tạo công cụ, thiết bị, góp phần tăng năng suất, tự động hóa và phát triển công nghệ cao. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp cơ khí nhỏ và vừa vẫn gặp khó khăn về năng suất, năng lực sản xuất và công nghệ.
“Trong ngành cơ khí, hơn 70% thiết bị máy móc vẫn phải nhập khẩu. Công nghệ lạc hậu, sản xuất chủ yếu là lắp ráp, chưa làm chủ thiết kế, mã nguồn, vật liệu đầu vào. Giá thành sản phẩm cơ khí của Việt Nam cao gấp 2 lần so với Thái Lan, dù chất lượng tương đương”, ông Nam nêu thực tế.
Đồng thời ông Nam cho biết ngành thiếu vốn, thiếu nhân lực chất lượng cao; công nghệ lỗi thời, chưa tối ưu hóa sản xuất. Doanh nghiệp trong ngành chưa kết nối được với nhau để tận dụng năng lực nội tại. Thiếu tiêu chuẩn, thiếu đào tạo phù hợp với xu hướng sản xuất mới. Chưa làm chủ thiết kế, công nghệ lõi, phụ thuộc nặng vào đối tác nước ngoài.
Để nâng cao nội lực ngành công nghiệp, ông Cường cho rằng chúng ta cần tập trung vào 3 yếu tố cốt lõi.
Một là, đổi mới công nghệ và sáng tạo. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào R&D, nâng cấp thiết bị, cải tiến quy trình và chất lượng sản phẩm.
Hai là, tăng cường liên kết ngành. Phát triển các cụm công nghiệp, thúc đẩy kết nối giữa doanh nghiệp đầu chuỗi - doanh nghiệp sản xuất tại các vùng, cũng như giữa doanh nghiệp với các viện nghiên cứu, trường đại học.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu tự động hóa, số hóa và vận hành chuỗi cung ứng hiệu quả.
Dưới góc độ nhà nghiên cứu, ông Huân đánh giá cao những chính sách như Nghị quyết 68-NQ/TW, đặt mục tiêu rõ ràng về phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và tăng năng lực làm chủ công nghệ trong nước.
Theo lộ trình này, trong năm 2025, Việt Nam phấn đấu có một số doanh nghiệp lớn đủ năng lực làm chủ chuỗi sản xuất trong nước. Đến năm 2030, kỳ vọng có ít nhất 20 doanh nghiệp đủ sức tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu trong vai trò trung tâm.
Để đạt được mục tiêu này, ông Huân kiến nghị các chính sách như hỗ trợ tín dụng, đào tạo nhân lực, nâng cao năng suất chất lượng cần tiếp tục được thực thi mạnh mẽ và hiệu quả, đặc biệt là đưa chính sách đến đúng doanh nghiệp cần - đúng thời điểm - đúng nhu cầu.
Cụ thể, cần tập trung vào phát triển các doanh nghiệp trụ cột trong ngành, hỗ trợ hệ sinh thái vệ tinh xung quanh họ. Đồng thời, thúc đẩy chia sẻ thông tin, công cụ, nền tảng số hóa quản trị, nhất là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa - những đối tượng chịu nhiều hạn chế về nguồn lực.
Đặc biệt, cần tăng cường hợp tác giữa các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp đầu ngành, để khắc phục “rào cản văn hóa” rất phổ biến hiện nay, đó là thiếu kết nối giữa các doanh nghiệp cùng khu vực, dù có năng lực bổ trợ lẫn nhau.
Với ngành điện tử, bà Hương đề xuất nâng cấp hạ tầng tại TP.HCM, Hòa Lạc, Đà Nẵng với hệ thống phòng sạch, trung tâm kiểm định, nguồn điện ổn định; thúc đẩy hợp tác công - tư (PPP); huy động vốn xây dựng fab quy mô nhỏ phục vụ R&D và sản xuất chip chuyên dụng.
Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, phối hợp với các hiệp hội quốc tế như Hiệp hội Công nghiệp bán dẫn (SIA), Hiệp hội Thương mại toàn cầu cho ngành công nghiệp bán dẫn và các ngành công nghiệp liên quan (SEMI), xây dựng phòng lab đạt chuẩn quốc tế. Đồng thời, phát triển hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, xây dựng quy chuẩn tiêu chuẩn Việt Nam cho ngành bán dẫn, trung tâm kiểm nghiệm đạt chuẩn, đảm bảo sản phẩm có chất lượng quốc tế.
Đối với ngành cơ khí, muốn hùng cường, tự chủ, theo ông Nam, cần đẩy mạnh đào tạo và nâng cao năng lực kỹ thuật, từ cơ bản đến chuyên sâu. Thay đổi tư duy và mô hình đào tạo. Ví dụ như Nga mất 15 năm để chuyển đổi sang thiết kế số, loại bỏ hoàn toàn bản vẽ giấy trong thiết kế kỹ thuật. Trong khi Việt Nam vẫn giảng dạy và áp dụng TCVN kỹ thuật 2D, chưa cập nhật phương pháp thiết kế số hóa (3D, tích hợp sai số, thiết kế ngược...).
Cùng với đó, cập nhật tiêu chuẩn thiết kế và sản xuất, phù hợp với số hóa và chuyển đổi số trong công nghiệp. Tăng cường đầu tư vào R&D, chủ động vật liệu đầu vào. Khuyến khích hình thành các chuỗi liên kết ngành, giữa doanh nghiệp dân sự - quốc phòng - đầu chuỗi và phụ trợ. Tập trung hỗ trợ doanh nghiệp cơ khí thích nghi với các tiêu chuẩn mới: ISO, Carbon Footprint, chuyển đổi xanh...