08:00 31/08/2023

Thúc đẩy sản xuất, phân phối xanh cần đòn bẩy từ chính sách

Vũ Khuê

Việt Nam cần xây dựng, ban hành thêm những khung pháp lý, chính sách khuyến khích sản xuất và tiêu dùng bền vững, hướng tới xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn…

Tiêu dùng xanh đã hiện diện trong các siêu thị.
Tiêu dùng xanh đã hiện diện trong các siêu thị.

Tại toạ đàm “Sản xuất và phân phối xanh - Giải pháp cho phát triển kinh tế bền vững” ngày 30/8, ông Cù Huy Quang, Phó Chánh Văn phòng Sản xuất và Tiêu dùng bền vững (Bộ Công Thương), cho biết Bộ Công Thương là cơ quan được Thủ tướng Chính phủ giao chủ trì tổ chức và thực hiện Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững theo Quyết định 889 của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 24/6/2020.

Hai năm qua, Bộ đã triển khai nhiều hoạt động nhằm thúc đẩy Chương trình sản xuất và tiêu dùng bền vững. Đã xây dựng được những mô hình tái chế, tái sản xuất, tái sử dụng nguyên vật liệu trong ngành công nghiệp. Nâng cao ý thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng về sản xuất, tiêu dùng bền vững.

CHƯA CÓ CƠ CHẾ KHUYẾN KHÍCH SẢN XUẤT XANH

Mặc dù vậy, khi áp dụng sản xuất xanh, tiêu dùng bền vững, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn. Ông Quang cho rằng khó khăn đầu tiên là khi chuyển đổi sang nền sản xuất xanh phải lựa chọn được mô hình, công nghệ phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp.

Cùng với đó, vốn đầu tư là một trong những thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguồn lực tài chính hạn chế, song lại rất khó để tiếp cận được với nguồn vốn vay ưu đãi cũng như lãi suất thấp.

Đặc biệt, những chính sách của nhà nước về hỗ trợ doanh nghiệp trong chuyển đổi sang nền sản xuất xanh còn hạn chế, chưa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.

Dưới góc độ doanh nghiệp sản xuất, ông Nguyễn Hoàng Huân, Phó Giám đốc Công ty CP Tin học, Công nghệ, Môi trường - Vinacomin (VITE), chia sẻ một trong những khó khăn trong quá trình sản xuất là thiếu sự tương đồng, kết nối với địa phương.

“Ví dụ như tỉnh Quảng Ninh, có rất nhiều đơn vị xung quanh khu vực mà tập đoàn đang triển khai sản xuất. Nhưng giữa các đơn vị lại không đồng bộ với nhau và không đồng bộ ngay cả trong chính sách của tỉnh, với các đơn vị cũng lại khác nhau nữa. Đây là một trong những khó khăn”, ông Huân dẫn chứng.

Khó khăn nữa là yếu tố liên quan lịch sử. Sau khi quá trình dài triển khai sản xuất, hiện trạng đã ổn định từ hàng chục năm nay nếu bây giờ có những tác động để thay đổi thì rất khó và tốn kém.

Bên cạnh đó, khó khăn liên quan đến chi phí lớn. “Nhiều khi anh em trong ngành hay nói đùa đây là cuộc chơi của con nhà giàu vì chi phí rất lớn. Chi phí về trang thiết bị cho chuyển đổi công nghệ đến nhân lực, chi phí về chuyển giao, nghiên cứu, đào tạo…”, ông Huân cho biết.

Nghịch lý, chi phí lớn nhưng cơ chế về tiếp cận các nguồn vốn để triển khai các dự án này đến thời điểm hiện tại chưa có, kể cả nguồn vốn trong hay ngoài nước để triển khai các thủ tục.

Thậm chí, dù chúng ta khuyến nghị các doanh nghiệp sản xuất xanh, sạch hơn nhưng đến thời điểm hiện tại vẫn không có một chính sách nào mang tính chất ưu tiên về sản xuất, ưu tiên về tiêu thụ đối với doanh nghiệp. Chính vì vậy không động viên, không khuyến khích được nhiều doanh nghiệp cố gắng hướng tới sản xuất xanh, sạch mặc dù ai cũng biết đó rất là tốt.

Về mặt pháp lý nhà nước, các văn bản hướng dẫn có sự chồng chéo. Quá trình sản xuất chuyển sang xanh sạch hơn liên quan đến rất nhiều bộ, ban, ngành và chính sự chồng chéo này gây ra ảnh hưởng rất lớn cho quá trình triển khai.

Với vai trò doanh nghiệp phân phối, bà Nguyễn Thị Mỹ Hưng, Quản lý Bộ phận Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, MM Mega Market Việt Nam, cho hay trong suốt quá trình hoạt động MM cũng vấp phải những sự phản đối, không hài lòng từ chính khách hàng. Đơn cử như MM không phát túi nilon tại các quầy tính tiền ban đầu cũng nhận được sự không hài lòng từ khách hàng rất nhiều.

Ngoài ra một khó khăn nữa là trong quá trình thực hiện Nghị định 08 về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, MM đang trong quá trình thu thập thông tin về bao bì để chuẩn bị báo cáo (báo cáo EPR) thì MM nhận thấy rất nhiều đối tác, nhiều doanh nghiệp không hề biết đến khung luật này. Vì vậy, MM phải dành thời gian để giải thích cũng như hướng dẫn cho đối tác cập nhật về quy định này cũng như việc triển khai thực hiện luật ở trong doanh nghiệp.

Ngoài ra, một số khó khăn khác MM gặp phải phần lớn là những hiểu biết và nhận thức của người tiêu dùng về tiêu dùng xanh còn hạn chế, chưa lan toả rộng rãi.

 ĐỒNG BỘ HÓA CÁC CHÍNH SÁCH

Để tháo gỡ những vướng mắc trên, nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam cần xây dựng, ban hành thêm những khung pháp lý, chính sách khuyến khích sản xuất và tiêu dùng bền vững, hướng tới xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, tiêu dùng.

Đặc biệt, cần chú trọng việc kết nối mạng lưới sản xuất và tiêu dùng bền vững hình thành liên kết chuỗi từ khâu sản xuất đến phân phối và tiêu dùng các sản phẩm.

Ông Cù Huy Quang, Phó Chánh Văn phòng Sản xuất và Tiêu dùng bền vững (Bộ Công Thương) phát biểu tại hội thảo.
Ông Cù Huy Quang, Phó Chánh Văn phòng Sản xuất và Tiêu dùng bền vững (Bộ Công Thương) phát biểu tại hội thảo.

Theo ông Quang, Nhà nước cần phải hoàn thiện những chính sách, khung pháp lý để hỗ trợ được doanh nghiệp chuyển đổi sang nền sản xuất xanh, tiêu dùng bền vững. Cần đồng bộ hóa các chính sách ưu tiên phát triển, chuyển đổi sang sản xuất xanh trong các ngành, các lĩnh vực, có thể ưu tiên cho những lĩnh vực, những ngành áp dụng công nghệ xanh, sạch.

Với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất cần tích cực hơn nữa trong đầu tư nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ xanh, áp dụng các giải pháp sản xuất bền vững đáp ứng các chứng chỉ, tiêu chuẩn bền vững trong nước cũng như quốc tế.

Doanh nghiệp cần nhận thức rõ ràng, quá trình chuyển đổi sang nền sản xuất bền vững, sản xuất xanh, tiêu dùng bền vững, tiêu dùng xanh là một xu thế tất yếu, sản xuất bền vững là con đường chiến lược.

Còn ông Huân đề nghị, cần có những giải pháp về cơ chế, chính sách và ưu tiên và khuyến khích nghiên cứu khoa học, phát triển các công nghệ hiện đại để áp dụng vào sản xuất nhằm tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải để kịp thời đáp ứng mục tiêu tiết kiệm năng lượng cũng như nâng cao sản lượng và hiệu quả của trang thiết bị đầu tư.

Đặc biệt, cần có những cơ chế, chính sách giúp các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi với thời gian ưu đãi dài, ổn định vì việc sản xuất xanh và sạch không thể nào ngày 1, ngày 2 làm được ngay.

Đến thời điểm hiện tại chúng ta không hề có một hình thức nào ưu tiên những đơn vị sản xuất xanh, sạch hơn. Trong khi ở nước ngoài, nếu hai đơn vị cùng sản xuất ra một thiết bị nhưng đơn vị nào sản xuất sạch hơn, xanh hơn thì họ ưu tiên sử dụng, ưu tiên về chính sách, ưu tiên về quảng bá sản phẩm.

“Tôi nghĩ đây là một trong những chính sách mà trong thời gian tới chúng ta cần phải có để khuyến khích các doanh nghiệp hướng tới một nền sản xuất xanh, sạch hơn”, ông Huân nhấn mạnh.