Với việc mở rộng hơn các nhóm giải pháp đã được thực hiện trong các nghị quyết trước về cải cách điều kiện kinh doanh, Nghị quyết 02 vừa được ban hành sẽ tạo ra những áp lực để tạo ra những thay đổi cần thiết từ chính “nội bộ” nền kinh tế để tiệm cận với những chuẩn mực quốc tế bên ngoài. Điều này đòi hỏi sự chỉ đạo thường xuyên, thậm chí là áp đặt từ Chính phủ...
Qua 8 năm nỗ lực cải cách, vị trí của Việt Nam trên các bảng xếp hạng uy tín toàn cầu được nâng lên. Tuy nhiên, cải cách môi trường kinh doanh ở nước ta từ năm 2020 do tác động của đại dịch Covid-19 có xu hướng chững lại. Trên bảng xếp hạng toàn cầu, một số chỉ tiêu cải thiện chưa bền vững và còn không ít chỉ tiêu cụ thể mà chất lượng và thứ hạng của Việt Nam vẫn còn thấp hoặc không được cải thiện, thậm chí giảm bậc.
Nghị quyết 02/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia 2022 vừa được ban hành sẽ tạo ra những áp lực để tạo ra những thay đổi cần thiết từ chính “nội bộ” nền kinh tế để tiệm cận với những chuẩn mực quốc tế bên ngoài.
Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomyđã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng Ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh,Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) về vấn đề này.
Bà Nguyễn Minh Thảo.
"Việc cắt giảm hay dỡ bỏ các điều kiện đầu tư và kinh doanh bất hợp lý đồng nghĩa với việc giảm sự can thiệp, giảm quyền lực của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Song không dễ để cơ quan quản lý từ bỏ quyền quản lý, vì vậy, cộng đồng doanh nghiệp cần liên minh, tạo ra tiếng nói đủ lớn, đủ mạnh để thảo luận với cơ quan quản lý về những bất cập của các điều kiện không phù hợp".
Bà Nguyễn Minh Thảo.
"Việc cắt giảm hay dỡ bỏ các điều kiện đầu tư và kinh doanh bất hợp lý đồng nghĩa với việc giảm sự can thiệp, giảm quyền lực của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Song không dễ để cơ quan quản lý từ bỏ quyền quản lý, vì vậy, cộng đồng doanh nghiệp cần liên minh, tạo ra tiếng nói đủ lớn, đủ mạnh để thảo luận với cơ quan quản lý về những bất cập của các điều kiện không phù hợp".
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 02/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2022. Nghị quyết này khác gì so với những nghị quyết được ban hành trước đây, thưa bà?
Cũng giống như các nghị quyết trước, Nghị quyết 02 vừa được ban hành vẫn tiếp cận theo các thông lệ quốc tế tốt với việc xác định các mục tiêu và giải pháp cụ thể cho các bộ ngành địa phương liên quan.
Điểm khác biệt của Nghị quyết 02 năm nay so với Nghị quyết 19 hay 02 trước đây là ở các nhóm giải pháp trọng tâm và chi tiết hơn. Chẳng hạn, một số nhóm chỉ tiêu trước đây Việt Nam rất yếu như quyền tài sản hay các chỉ số liên quan đến phát triển bền vững cũng đã được đưa vào bản nghị quyết này.
Ngoài ra, Nghị quyết cũng mở rộng hơn các nhóm giải pháp đã được thực hiện trong các nghị quyết trước về cải cách điều kiện kinh doanh. Đó là cùng với việc rà soát danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện để nhận diện những bất cập của điều kiện kinh doanh, Nghị quyết sẽ rà soát danh mục đầu tư có điều kiện để nhận diện “gốc rễ” của vấn đề.
Mặc dù hàng năm Luật Đầu tư có những điều chỉnh về danh mục ngành nghề nhưng về cơ bản chỉ cắt giảm về mặt số lượng ngành nghề trên giấy tờ, còn thực tế ngành nghề đó không được cắt giảm mà được “nhập chung” vào các ngành nghề khác theo những nhánh nhỏ khác nhau. Do đó, điều kiện kinh doanh mà doanh nghiệp phải tuân thủ không hề giảm chút nào.
Vì vậy, tới đây cần tập trung vào rà soát danh mục các ngành nghề đó để xem xét ngành nào thực sự cần điều kiện kinh doanh, ngành nào có thể loại bỏ để có các cải cách về điều kiện kinh doanh thực chất và phù hợp với thực tế. Đây là nhóm giải pháp trọng tâm mà Nghị quyết 02 lần này mở rộng hơn so với trước đây.
Trước đây, chúng ta đã nhận diện được một phần những bất cập mâu thuẫn chồng chéo, không hợp lý hay khác biệt của các quy định pháp luật nhưng chưa tìm ra được giải pháp nào để khắc phục tình trạng này triệt để. Hơn nữa, những bất cập mới được nhận diện mà chưa được phân loại, đánh giá điều kiện nào còn hay không còn phù hợp để có những ứng xử hợp lý. Do đó, Chính phủ thời gian tới sẽ tập trung vào việc đưa ra những phương án xử lý cho từng bất cập như vậy.
Ví dụ, đối với những quy định bất hợp lý có thể sẽ bỏ hay sửa đổi, bổ sung, thay đổi cụ thể cho phù hợp với thực tế. Điều này không chỉ nhằm cải thiện môi trường kinh doanh mà còn tạo ra sự thuận lợi trong hoạt động đầu tư. Trước đây, chúng ta mới chú trọng vào môi trường kinh doanh, bây giờ cần tập trung cả về môi trường đầu tư, nhằm khơi thông cả đầu tư công lẫn đầu tư của khu vực tư nhân trong nước và ngoài nước.
Giải pháp trọng tâm nữa mà Chính phủ hướng đến là tăng cường chuyển đổi số. Trong thời gian qua, Chính phủ đã đẩy mạnh áp dụng chuyển đổi số trong khu vực công để tạo ra cơ chế thông thoáng cho doanh nghiệp trong việc thực hiện thủ tục hành chính. Năm nay, giải pháp này tiếp tục được đẩy mạnh không chỉ ở cơ quan quản lý nhà nước mà cả ở khu vực doanh nghiệp nhằm tạo ra sự đồng bộ, thống nhất giữa các bên để tạo ra bước chuyển lớn trong việc kết nối dữ liệu, thực hiện các thủ tục liên quan tới kinh doanh và đầu tư.
Một số mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam đến năm 2025.
Bên cạnh nhóm giải pháp nêu trên, Nghị quyết 02 cũng đề ra những giải pháp về cải cách thủ tục hành chính gắn với phân cấp và trao quyền nhiều hơn cho địa phương thông qua cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra và hậu kiểm. Hoạt động quản lý và kiểm tra chuyên ngành tiếp tục được đẩy cao hơn một bước nhằm đạt được cùng mức với các quốc gia trong khu vực cũng như tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Theo bà, những thay đổi này sẽ giúp môi trường kinh doanh Việt Nam thay đổi và thăng hạng như thế nào?
Những thay đổi này đi theo hướng tiệm cận với những thay đổi mà thế giới đang điều chỉnh để phù hợp với xu thế vận động và phát triển của thương mại và đầu tư quốc tế. Đó là cùng với việc dỡ bỏ những rào cản về kinh doanh và đầu tư, Việt Nam cần thúc đẩy doanh nghiệp tự phát triển theo hướng xanh và bền vững.
Nghị quyết 02 đưa ra nhiều giải pháp nhằm cải thiện những chỉ số Việt Nam đang có điểm số thấp, những yếu tố phù hợp cho giai đoạn đổi mới sáng tạo, công nghiệp 4.0 nhằm tạo ra sự phát triển và sáng tạo cho nền kinh tế. Ngoài ra, Nghị quyết cũng chú trọng vào các chỉ số liên quan đến chất lượng người lao động, những ý tưởng sáng tạo, chỉ số về giáo dục…
Đặc biệt, với việc dỡ bỏ những rào cản về đầu tư, kinh doanh và chú trọng vào những nhóm vấn đề, lĩnh vực giúp nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng… môi trường kinh doanh của Việt Nam chắc chắn sẽ thăng hạng. Tuy vậy, vấn đề mấu chốt ở đây không phải là cuộc đua về thứ hạng mà là cuộc đua nội bộ để quốc gia tốt hơn.
Những cải thiện nhằm dỡ bỏ các rào cản đầu tư sẽ giúp ích như thế nào cho các hoạt động đầu tư công lẫn tư, trong nước lẫn ngoài nước?
Việc đánh giá dựa trên thực tế khách quan và số liệu thu thập độc lập của các tổ chức xếp hạng quốc tế có uy tín sẽ giúp Việt Nam nhìn nhận những điểm yếu kém, có thể cải thiện và học hỏi từ kinh nghiệm các quốc gia khác.
Vì vậy, khi cải cách theo các chuẩn mực quốc tế, Việt Nam sẽ trở thành thị trường “dễ” đánh giá trong con mắt của nhà đầu tư nước ngoài nhờ những tiêu chuẩn, thang điểm rõ ràng và cụ thể. Nghị quyết 02 cũng dựa vào những bảng xếp hạng uy tín mà nhà đầu tư thường tham khảo để đưa ra những giải pháp phù hợp để nâng cao vị trí của Việt Nam trong bảng xếp hạng môi trường kinh doanh.
Ngoài ra, việc áp dụng theo những chuẩn mực quốc tế cũng tạo áp lực lên các cơ quan, tổ chức trong nước thúc đẩy cải cách môi trường kinh doanh và đầu tư, từ đó làm cho quá trình xây dựng chính sách tốt hơn, tham gia các hoạt động hội nhập thuận lợi hơn.
Áp lực lên các các cơ quan, tổ chức trong nước trong việc cắt giảm những danh mục ngành nghề đầu tư và kinh doanh có điều kiện cũng như cải thiện những chỉ số, thành phần khác là gì, thưa bà?
Việc cắt giảm hay dỡ bỏ các điều kiện đầu tư và kinh doanh bất hợp lý đồng nghĩa với việc giảm sự can thiệp, giảm quyền lực của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Song không dễ để cơ quan quản lý từ bỏ quyền quản lý, vì vậy, cộng đồng doanh nghiệp cần liên minh, tạo ra tiếng nói đủ lớn, đủ mạnh để thảo luận với cơ quan quản lý về những bất cập của các điều kiện không phù hợp.
Ở chiều ngược lại, để nâng hạng môi trường kinh doanh, khơi thông nguồn vốn đầu tư, các cơ quan quản lý cũng cần phải thay đổi nhận thức, từ bỏ công cụ quản lý cũ, chấp nhận cách quản lý mới phù hợp với thực tế nhằm giảm rào cản cho doanh nghiệp trong khi vẫn đảm bảo việc quản lý nhà nước hiệu quả hơn, chẳng hạn như chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm.
Để làm được điều này, cơ quan quản lý nhà nước cần thay đổi từ cấp quản lý cao nhất đến từng cán bộ liên quan và nâng cao năng lực để thích ứng với việc quản lý mới. Áp lực thay đổi này là rất lớn, đòi hỏi nỗ lực, quyết tâm cao của cơ quan quản lý. Ngoài ra còn có áp lực từ nhiều bên, như cơ quan truyền thông, các cơ quan đánh giá độc lập, các bên giám sát để tạo ra sức ép đủ lớn buộc phải thay đổi.
Với những áp lực như vậy, chúng ta cần có những hành động nào nhằm đạt được mục tiêu đề ra?
Để tạo ra sự thay đổi cần có sự chỉ đạo thường xuyên, liên tục và áp đặt từ Chính phủ nhằm tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng “tôi cứ làm còn đạt được hay không thì không quan trọng”.
Và để có được áp lực mạnh mẽ như vậy, cần nhiều cơ quan, tổ chức tham gia giám sát quá trình này. Sự giám sát rất đa dạng có thể đến từ các cơ quan nghiên cứu độc lập, các hiệp hội doanh nghiệp, các cơ quan truyền thông và các tổ chức quốc tế. Áp lực cần được tạo ra thường xuyên, cần nói đến nhiều lần, nhiều nơi một cách chi tiết và cụ thể.
Bản thân các bộ ngành cũng cần thường xuyên đối thoại với các doanh nghiệp nhằm tạo cho các lãnh đạo bộ ngành nhận biết được những vấn đề tồn tại, những rào cản để họ thay đổi từ bên trong. Nếu tổng hòa các giải pháp này thì sẽ loại bỏ được những rào cản.
Bộ trưởng, Chủ tịch tỉnh phải chịu trách nhiệm về các chỉ số môi trường kinh doanh
Nâng môi trường kinh doanh lên cấp cao hơn
Chủ tịch Quốc hội: Việt Nam cam kết tạo lập môi trường kinh doanh tốt nhất, hướng đến chuẩn mực OECD
Thủ đô ngàn năm văn hiến đã khắc sâu trong lịch sử dân tộc như một biểu tượng thiêng liêng của ý chí độc lập, tự do và khát vọng hòa bình, đồng thời là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa, trí tuệ, bản lĩnh và khí phách của dân tộc Việt Nam...
Việt Nam và Bhutan: Hợp tác Đối tác Chiến lược hướng tới tương lai bền vững
Mối quan hệ song phương giữa Việt Nam và Bhutan ngày càng được khẳng định qua chuyến thăm của Quốc vương Bhutan Jigme Khesar Namgyel Wangchuck và Hoàng hậu đến Việt Nam..
Bão số 5 Kajiki hướng vào đất liền, các tỉnh Bắc Trung Bộ khẩn trương ứng phó
Chiều 22/8, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia, chủ trì cuộc họp trực tiếp và trực tuyến với các địa phương ven biển từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế để bàn giải pháp ứng phó áp thấp nhiệt đới có thể mạnh lên thành bão số 5 – Kajiki.
Triển lãm Thành tựu đất nước mở cửa cho Nhân dân tham quan từ ngày 28/8
Triển lãm Thành tựu đất nước với chủ đề 80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, sẽ giới thiệu, trưng bày những thành tựu nổi bật của đất nước trong 80 năm xây dựng và phát triển trên các lĩnh vực. Triển lãm sẽ mở cửa cho Nhân dân vào tham quan từ ngày 28/8 tới đây...
Quốc vương Bhutan và Hoàng hậu kết thúc chuyến thăm tới Việt Nam
Quốc vương Bhutan Jigme Khesar Namgyel Wangchuck bày tỏ vui mừng lần đầu tiên sang thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam, nhấn mạnh Bhutan coi Việt Nam là một trong những đối tác ưu tiên hàng đầu ở khu vực Đông Nam Á, mong muốn tăng cường hợp tác nhiều mặt, chia sẻ kinh nghiệm của Việt Nam...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: