Cần 19.000 tỷ vốn đầu tư mỗi năm, ngành than chỉ góp 0,84% GDP
6 tháng đầu năm đóng góp của ngành than chiếm tỷ trọng 0,84%/GDP cả nước
Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa có báo cáo đánh giá chi tiết từng ngành công nghiệp gửi Chính phủ. Trong đó, nhiều vấn đề của ngành than đã được Bộ đề cập, phân tích và đưa ra giải pháp.
Theo báo cáo, tính chung 6 tháng đầu năm 2017, sản lượng than sạch cả nước ước đạt 20,6 triệu tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2016, bằng khoảng 44,5% kế hoạch năm.
Tồn kho than 6 tháng đầu năm khoảng 10,22 triệu tấn, trong đó Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) tốn kho khoảng 9,3 triệu tấn, Tổng công ty Đông Bắc khoảng 920.000 tấn.
"6 tháng đầu năm đóng góp của ngành than chiếm tỷ trọng 0,84%/GDP cả nước, chiếm tỷ trọng 3,04%/GDP công nghiệp, đóng góp 0,06 điểm phần trăm trong tăng trưởng GDP”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho hay.
Nguyên nhân làm cho ngành khai thác than đạt thấp so với kế hoạch được Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận địnhh là do điều kiện khai thác của các mỏ ngày càng xuống sâu và xa hơn, việc áp dụng mức tính thuế và phí mới làm cho chi phí khai thác tăng, dẫn đến giá thành sản xuất cao, làm giảm sức cạnh tranh của than sản xuất trong nước so với than nhập khẩu.
Các loại thuế phí hiện nay cũng chiếm 14 -15% giá thành than. Đặc biệt, sản lượng than xuất khẩu sụt giảm mạnh, 6 tháng đầu năm, ngành than chỉ xuất khẩu được 1 triệu tấn do nhu cầu thế giới thấp, nguồn than cung cấp xu hướng tăng.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá năng lực sản xuất của ngành hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu than cho sản xuất, song việc gia tăng sản lượng khai thác phụ thuộc vào nhu cầu của thị trường. Ngành than phấn đầu hoàn thành mục tiêu sản lượng than sạch sản xuất khoảng 41,43 triệu tấn, tăng 7,6% so với năm 2016. Tồn kho than sạch cuối năm 2017 dự kiến sẽ là khoảng 13,85 triệu tấn.
Báo cáo của Bộ còn đề cập đến việc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) muốn điều chỉnh nhu cầu sử dụng than của TKV năm 2017 từ 19,92 triệu tấn giảm xuống 17,92 triệu tấn, việc cắt giảm sản lượng sẽ gây thiệt hại cho TKV và các đối tác do đã ký hợp đồng triển khai kế hoạch từ đầu năm 2017, dẫn đến khả năng làm tăng tồn kho than cao hơn.
Quan điểm được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra là ưu tiên sử dụng than của TKV, điển hình là các doanh nghiệp lớn như EVN hay Petro Vietnam, trên nguyên tắc thị trường về giá mua than, khối lượng thoả thuận kí từ năm.
Bộ này cũng kiến nghị Bộ Tài chính tiếp tục chủ trì, hiệp thương giá bán than đến các hộ tiêu thụ trong nước.
"Để các doanh nghiệp trong nước ưu tiên sử dụng than của TKV và than Đông Bắc thì về nguyên tắc giá bán than đối đa bằng giá than nhập khẩu”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẳng định và muốn phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương kiểm tra cụ thể cơ cấu giá than hiện nay, tác động từ việc điều chỉnh các loại thuế trong năm 2017 tới giá thành sản xuất. TKV và Công ty Than Đông Bắc phải báo cáo cụ thể về việc tiết giảm chi phí năm 2017.
Quy hoạch phát triển ngành than đến năm 2020, xét đến 2030 ghi nhận tổng trữ lượng và tài nguyên than của Việt Nam tính đến cuối năm 2015 là 48,88 tỷ tấn bao gồm 2,26 tỷ tấn và 46,62 tỷ tấn tài nguyên, than bùn là 0,34 tỷ tấn. Trữ lượng và tài nguyên than huy động vào quy hoạch khoảng 3,05 tỷ tấn.
Để khai thác đáp ứng nhu cầu sử dụng than đến năm 2020 là 86,4 triệu tấn, năm 2030 lên 256 triệu tấn ngành than đang đứng trước những áp lực lớn về vốn.
Nhu cầu vốn đến năm 2020 ngành than cần là 96.566 tỷ đồng vốn đầu tư, bình quân là 19.313 tỷ đồng/năm. Giai đoạn 2021-2030 vốn đầu tư lên tới 172.437 tỷ đồng đầu tư để duy trì và mở rộng sản xuất, bình quân vốn đầu tư ngành than mỗi năm là 17.934 tỷ đồng.
Theo báo cáo, tính chung 6 tháng đầu năm 2017, sản lượng than sạch cả nước ước đạt 20,6 triệu tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2016, bằng khoảng 44,5% kế hoạch năm.
Tồn kho than 6 tháng đầu năm khoảng 10,22 triệu tấn, trong đó Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) tốn kho khoảng 9,3 triệu tấn, Tổng công ty Đông Bắc khoảng 920.000 tấn.
"6 tháng đầu năm đóng góp của ngành than chiếm tỷ trọng 0,84%/GDP cả nước, chiếm tỷ trọng 3,04%/GDP công nghiệp, đóng góp 0,06 điểm phần trăm trong tăng trưởng GDP”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho hay.
Nguyên nhân làm cho ngành khai thác than đạt thấp so với kế hoạch được Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận địnhh là do điều kiện khai thác của các mỏ ngày càng xuống sâu và xa hơn, việc áp dụng mức tính thuế và phí mới làm cho chi phí khai thác tăng, dẫn đến giá thành sản xuất cao, làm giảm sức cạnh tranh của than sản xuất trong nước so với than nhập khẩu.
Các loại thuế phí hiện nay cũng chiếm 14 -15% giá thành than. Đặc biệt, sản lượng than xuất khẩu sụt giảm mạnh, 6 tháng đầu năm, ngành than chỉ xuất khẩu được 1 triệu tấn do nhu cầu thế giới thấp, nguồn than cung cấp xu hướng tăng.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá năng lực sản xuất của ngành hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu than cho sản xuất, song việc gia tăng sản lượng khai thác phụ thuộc vào nhu cầu của thị trường. Ngành than phấn đầu hoàn thành mục tiêu sản lượng than sạch sản xuất khoảng 41,43 triệu tấn, tăng 7,6% so với năm 2016. Tồn kho than sạch cuối năm 2017 dự kiến sẽ là khoảng 13,85 triệu tấn.
Báo cáo của Bộ còn đề cập đến việc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) muốn điều chỉnh nhu cầu sử dụng than của TKV năm 2017 từ 19,92 triệu tấn giảm xuống 17,92 triệu tấn, việc cắt giảm sản lượng sẽ gây thiệt hại cho TKV và các đối tác do đã ký hợp đồng triển khai kế hoạch từ đầu năm 2017, dẫn đến khả năng làm tăng tồn kho than cao hơn.
Quan điểm được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra là ưu tiên sử dụng than của TKV, điển hình là các doanh nghiệp lớn như EVN hay Petro Vietnam, trên nguyên tắc thị trường về giá mua than, khối lượng thoả thuận kí từ năm.
Bộ này cũng kiến nghị Bộ Tài chính tiếp tục chủ trì, hiệp thương giá bán than đến các hộ tiêu thụ trong nước.
"Để các doanh nghiệp trong nước ưu tiên sử dụng than của TKV và than Đông Bắc thì về nguyên tắc giá bán than đối đa bằng giá than nhập khẩu”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẳng định và muốn phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương kiểm tra cụ thể cơ cấu giá than hiện nay, tác động từ việc điều chỉnh các loại thuế trong năm 2017 tới giá thành sản xuất. TKV và Công ty Than Đông Bắc phải báo cáo cụ thể về việc tiết giảm chi phí năm 2017.
Quy hoạch phát triển ngành than đến năm 2020, xét đến 2030 ghi nhận tổng trữ lượng và tài nguyên than của Việt Nam tính đến cuối năm 2015 là 48,88 tỷ tấn bao gồm 2,26 tỷ tấn và 46,62 tỷ tấn tài nguyên, than bùn là 0,34 tỷ tấn. Trữ lượng và tài nguyên than huy động vào quy hoạch khoảng 3,05 tỷ tấn.
Để khai thác đáp ứng nhu cầu sử dụng than đến năm 2020 là 86,4 triệu tấn, năm 2030 lên 256 triệu tấn ngành than đang đứng trước những áp lực lớn về vốn.
Nhu cầu vốn đến năm 2020 ngành than cần là 96.566 tỷ đồng vốn đầu tư, bình quân là 19.313 tỷ đồng/năm. Giai đoạn 2021-2030 vốn đầu tư lên tới 172.437 tỷ đồng đầu tư để duy trì và mở rộng sản xuất, bình quân vốn đầu tư ngành than mỗi năm là 17.934 tỷ đồng.