Đẩy mạnh đưa lao động vùng khó khăn đi làm việc ở thị trường có thu nhập cao
Trong những năm gần đây, số lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày một tăng, đặc biệt tăng mạnh ở các thị trường có thu nhập tốt và ổn định như Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc. Tuy nhiên, số lao động tại các vùng đặc biệt khó khăn được đưa đi vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ...
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ về công tác giảm nghèo bền vững cho người dân tại các vùng đặc biệt khó khăn trên cả nước, từ năm 2009, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành các chính sách, chương trình hỗ trợ đưa người lao động tại các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững các giai đoạn 2016-2020 và giai đoạn 2021-2025.
LAO ĐỘNG ĐI XUẤT KHẨU Ở VÙNG KHÓ KHĂN CÒN CHIẾM TỶ LỆ KHIÊM TỐN
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, các chính sách đã hỗ trợ người lao động thuộc các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Từ đó, góp phần nâng cao nhận thức của người lao động, đặc biệt là người đồng bào dân tộc thiểu số, người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, giúp họ có ý thức học nghề, ngoại ngữ và rèn luyện kỹ năng, kỷ luật, để đáp ứng yêu cầu làm việc tại các nước có nền kinh tế phát triển, với thu nhập cao, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc).
Sau khi trở về, người lao động có một khoản tiền tiết kiệm, cộng với tay nghề và tư duy mới đã góp phần phát triển sản xuất, kinh doanh cho gia đình, địa phương, từ đó là tiền đề giúp giảm nghèo bền vững.
Theo báo cáo của Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội), tính hết tháng 6/2023, theo báo cáo tổng hợp từ các địa phương, đã có khoảng 12.730 người lao động và thân nhân được tư vấn để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Khoảng 10.290 người lao động được hỗ trợ đào tạo và hỗ trợ các thủ tục đi làm việc ở nước ngoài, trong đó, có khoảng 466 ứng viên điều dưỡng, hộ lý đi làm việc ở Nhật Bản theo Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản, và có 9.824 người lao động thuộc các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo.
Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết trong những năm gần đây, số lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày một tăng, trung bình khoảng 8-10%/năm.
Đặc biệt, ghi nhận sự gia tăng mạnh mẽ số lượng lao động đi làm việc tại các nước có thu nhập tốt và ổn định như Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) và Hàn Quốc. Các thị trường này chiếm tới 95% số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài hằng năm.
Tuy nhiên, số lượng lao động tại các vùng đặc biệt khó khăn đi làm việc ở nước ngoài còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Nguyên nhân do địa bàn vùng biên giới là vùng sâu, vùng xa, người lao động thiếu thông tin về thị trường lao động ngoài nước. Hơn nữa, các doanh nghiệp cũng ít tuyển, do chi phí để tuyển lao động cao hơn các vùng miền khác, hiệu quả không cao do số lượng lao động đăng ký đi làm việc ở nước ngoài không nhiều.
Bên cạnh đó, người lao động tại các vùng đặc biệt khó khăn chưa đáp ứng đủ yêu cầu về tay nghề, ngoại ngữ, trình độ văn hóa, và sức khỏe để đi làm việc tại các thị trường có thu nhập tốt và ổn định như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc).
Đối với các thị trường có mức thu nhập trung bình như Trung Đông, Malaysia không thu hút được người lao động tham gia. Ngoài ra, người lao động có tâm lý không muốn đi xa, ngại học ngoại ngữ, tâm lý muốn đi ngay mà không cần phải học.
Mặt khác, nhu cầu tuyển dụng người lao động tại các khu công nghiệp rất lớn, cạnh tranh trực tiếp với nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Một số địa phương, chính quyền còn chưa thực sự nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đi làm việc ở nước ngoài trong việc tạo thu nhập, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động, do đó chưa tạo thành phong trào đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
CÓ CHÍNH SÁCH ƯU TIÊN HỖ TRỢ LAO ĐỘNG NGHÈO
Để tăng cường công tác đưa người lao động thuộc các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Cục Quản lý lao động ngoài nước cho rằng trong thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách và vận động các doanh nghiệp tham gia tuyển chọn người lao động thuộc đối tượng đi làm việc ở nước ngoài.
Cùng với đó, tiếp tục thực hiện đàm phán với phía Hàn Quốc về việc ưu tiên tuyển chọn người lao động thuộc vùng đặc biệt khó khăn đi làm việc tại nước này theo Chương trình EPS, trong lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp. Đồng thời, cần có hướng dẫn các địa phương trong việc triển khai thực hiện hỗ trợ người lao động thuộc đối tượng chính sách đi làm việc ở nước ngoài…
Trước đó, trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội liên quan đến việc đưa lao động là người dân tộc thiểu số, vùng khó khăn đi làm việc tại nước ngoài hôm 7/11, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung nhấn mạnh đây là chủ trương rất lớn trong tổng thể hoạt động đưa người lao động đi làm việc tại nước ngoài.
Theo Bộ trưởng, hiện đã có những chương trình dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, cụ thể trong Chương trình mục tiêu quốc gia cũng đã dành một chương trình dành cho đồng bào dân tộc thiểu số đi lao động ở nước ngoài.
Tất cả những lao động là người dân tộc thiểu số nằm ở vùng sâu, vùng xa, các huyện đặc biệt khó khăn được miễn phí các chế độ chính sách, bao gồm học nghề, học ngoại ngữ, miến toàn bộ chi phí đi làm việc ở nước ngoài.
Ngoài ra, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng có một kênh riêng để thường xuyên theo dõi, hỗ trợ đối tượng này. Bên cạnh đó, Bộ đã ký với Tổ chức Phát triển nhân lực quốc tế Nhật Bản (IM Japan) một chính sách miễn phí toàn bộ theo chương trình phi lợi nhuận với đối tượng lao động dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, thời gian vừa qua, kết quả đưa thanh niên là người dân tộc thiểu số đi làm việc ở nước ngoài chưa nhiều.
Nguyên nhân chủ yếu do công tác tuyên truyền, vận động và phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số, nên nhiều trường hợp đi nước ngoài rồi nhưng buồn, nhớ nhà nên phải đưa về. Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh, trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục quan tâm tìm giải pháp cho vấn đề này.