13:50 25/03/2023

“Deutsche Bank không phải Credit Suisse tiếp theo”

Ngọc Trang

Thủ tướng Đức Olaf Scholz nói rằng Deutsche Bank đã tiến hành “tái cấu trúc và hiện đại hóa mô hình kinh doanh và là một ngân hàng có lãi lớn”, do đó không có cơ sở nào để phải đồn đoán về tương lai của ngân hàng này...

Deutsche Bank đã có 10 quý lãi liên tiếp và sở hữu nguồn vốn cũng như khả năng thanh toán mạnh - Ảnh: Reuters
Deutsche Bank đã có 10 quý lãi liên tiếp và sở hữu nguồn vốn cũng như khả năng thanh toán mạnh - Ảnh: Reuters

Trong phiên giao dịch ngày thứ Sáu (24/3), giá cổ phiếu Deutsche Bank niêm yết tại Mỹ lao dốc mạnh sau khi giá hợp đồng hoán đổi rủi ro vỡ nợ (CDS) của ngân hàng này tăng mạnh. Cổ phiếu của nhà băng Đức bị nhà đầu tư bán tháo ồ ạt do lo ngại về sự bất ổn của ngành ngân hàng châu Âu.

Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích không hiểu vì sao một ngân hàng - với 10 quý lãi liên tiếp và sở hữu nguồn vốn cũng như khả năng thanh toán mạnh - này lại trở thành mục tiêu tiếp theo trên thị trường chứng khoán dường như đang ở chế độ “tìm kiếm và hủy diệt” hiện tại.

Theo CNBC, thương vụ giải cứu khẩn cấp ngân hàng Thụy Sỹ Credit Suisse của ngân hàng đối thủ UBS, cũng như sự sụp đổ trước đó của ngân hàng Silicon Valley Bank ở Mỹ dường như đã châm ngòi cho cơn hoảng loạn của các nhà đầu tư. Tâm lý này càng chịu áp lực mạnh khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục tăng lãi suất hôm thứ Tư.

Các ngân hàng trung ương và nhà quản lý tài chính đã kỳ vọng rằng thương vụ giải cứu Credit Suisse do nhà chức trách Thụy Sỹ làm trung gian sẽ trấn an các nhà đầu tư về sự ổn định của các nhà băng ở châu Âu.

Tuy nhiên, sự sụp đổ của ngân hàng 167 năm tuổi và động thái đi ngược quy tắc xử lý quyền lợi cho các chủ nợ của Credit Suisse với việc ghi bút toán giảm toàn bộ 17,4 tỷ USD trái phiếu cấp AT1 đã khiến thị trường tin rằng thương vụ trên chưa đủ để giải tỏa những căng thẳng của hệ thống ngân hàng châu Âu.

Những năm gần đây, Deutsche Bank đã thực hiện cuộc tái cấu trúc trị giá hàng tỷ USD với việc cắt giảm chi phí và tăng lợi nhuận. Nhà băng này ghi nhận thu nhập ròng 5 tỷ Euro (5,4 tỷ USD) trong năm 2022, tăng 159% so với năm trước.

Tỷ lệ CET1, thước đo khả năng thanh toán của ngân hàng, của Deutsche Bank là 13,4% vào cuối năm 2022, trong khi tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh toán là 142% và tỷ lệ đảm bảo thanh khoản (LCR) ở mức 119%. Những con số này cho thấy không có gì phải lo lắng về khả năng thanh toán hay thanh khoản của ngân hàng lớn nhất tại Đức.

Trong một cuộc họp báo ngày 24/3 tại Brussels, Thủ tướng Đức Olaf Scholz nói rằng Deutsche Bank đã tiến hành “tái cấu trúc và hiện đại hóa mô hình kinh doanh và là một ngân hàng có lãi lớn”. Do đó, ông cho rằng không có cơ sở nào để phải đồn đoán về tương lai của ngân hàng này.

Theo một số nhà phân tích, những lo ngại về Deutsche Bank chủ yếu xoay quanh danh mục bất động sản thương mại ở Mỹ cũng như danh mục tài sản phái sinh khổng lồ của ngân hàng này. Tuy nhiên, công ty nghiên cứu Autonomous, công ty con của AllianceBernstein, đã bác bỏ quan ngại này bởi cả hai đều “không quá đáng lo” do “khả năng thanh khoản và nguồn vốn mạnh” của ngân hàng.

“Việc chúng tôi xếp hạng cổ phiếu Deutsche Bank là Underperform (kém hiệu quả) đơn giản vì chúng tôi cho rằng có những cổ phiếu hấp dẫn hơn trong ngành này”, các chiến lược gia Stuart Graham và Leona Li của Autonomous viết trong một báo cáo nghiên cứu. “Chúng tôi không lo ngại  gì về khả năng tồn tại hay vấn đề tài sản của Deutsche Bank. Nói chính xác thì Deutsche Bank không phải là Credit Suisse tiếp theo”.

Các chiến lược gia của Autonomous nhấn mạnh rằng Deutsche Bank, khác với một Credit Suisse đang suy yếu, là ngân hàng có lợi nhuận ổn định. Nhóm này cũng đồng thời dự báo lợi nhuận trên giá trị sổ sách hữu hình của ngân hàng Đức là 7,1% trong năm 2023 và tăng lên 8,5% vào năm 2025.

Theo JPMorgan, sự sụp đổ của Credit Suisse bắt nguồn từ sự kết hợp của 3 yếu tố. Thứ nhất là sự thất bại trong công tác quản trị làm xói mòn niềm tin vào năng lực của bộ máy quản lý của ngân hàng. Thứ hai là bối cảnh thị trường thách thức cản trở kế hoạch tái cơ cấu của ngân hàng. Và cuối cùng là nỗi lo về rủi ro thanh khoản của thị trường sau khi ngân hàng SVB của Mỹ sụp đổ.

Dù vụ sụp đổ của SVB được xem là “giọt nước tràn ly” trong những nguyên nhân dẫn tới việc Credit Cruisse đổ vỡ, JPMorgan cho rằng không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của bối cảnh mà ở đó Credit Suisse đang cố gắng tái cơ cấu mô hình kinh doanh của mình. Điều này có thể thấy rõ khi so sánh với Deutsche Bank.

“Ngân hàng Đức cũng có những áp lực riêng và những khó khăn trong công tác quản trị. Theo quan điểm của chúng tôi, ngân hàng này vẫn có chi phí cơ sở tương đối cao và vẫn phụ thuộc vào nhượng quyền thương mại FICC (thu nhập cố định, tiền tệ và hàng hóa) để tạo vốn hữu cơ và là cơ sở để xếp hạng lại tín nhiệm”, các chiến lược gia của JPMorgan nói trong một báo cáo ngày 24/3.

“So sánh với Credit Suisse, dù ngân hàng Thụy Sỹ rõ ràng có những khó khăn trong việc quản trị một ngân hàng đầu tư có vốn và chi phí lớn, trong thời gian dài nhà băng này có cả hoạt động nhượng quyền quản lý tài sản và các tài sản chất lượng cao; tất cả đều lấy nguồn tiền từ các tài sản rủi ro cao và nợ”, các chiến lược gia của JPMorgan tiếp tục và nói thêm rằng dù chất lượng chuyển nhượng thế nào, những sự kiện xảy ra gần đây cho thấy những tổ chức tài chính như thế này sống “hoàn toàn dựa vào niềm tin”.

Vào thời điểm SVB sụp đổ, Credit Suisse đã gây chú ý với khả năng thanh khoản cũng như dòng tiền ồ ạt rút khỏi ngân hàng trong quý 4/2022.

Không rõ làn sóng rút tiền của người gửi tiền tại Credit Suisse bắt nguồn từ những thất bại của ngân hàng này - cộng hưởng với tâm lý lo lắng của người gửi tiền sau khi SVB sụp đổ, hay do nỗi lo về chính làn sóng này và sự thiếu tin tưởng vào bộ máy quản lý của ngân hàng.

“Thực tế, điều mà người gửi tiền có thể rút ra từ những diễn biến trong vài tuần qua ở cả Mỹ và châu Âu là các nhà chức trách có đi xa tới đâu để đảm bảo người gửi tiền được bảo vệ”, báo cáo của JPMorgan viết. “Dù thế nào, bài học cho các nhà đầu tư (và cả các tổ chức phát hành) ở đây rất rõ ràng. Đó là, sau cùng thì niềm tin vẫn là yếu tố then chốt. Đó là niềm tin vào bối cảnh thị trường nói chung, vào năng lực của bộ máy quản lý trong việc thể hiện sự minh bạch hay các biện pháp xử lý vấn đề thanh khoản”.