20:36 22/01/2024

Giải pháp "ngăn" trục lợi bảo hiểm thất nghiệp

Phúc Minh

Qua thanh tra, kiểm tra, cơ quan chức năng phát hiện có trường hợp người lao động chủ động xin nghỉ việc, hoặc chuyển từ doanh nghiệp này sang đơn vị khác, nhưng sau một thời gian ngắn quay lại, để đăng ký hưởng bảo hiểm thất nghiệp, song số này không phổ biến...

Trong quá trình hưởng trợ cấp thất nghiệp, hằng tháng người lao động phải thông báo tình hình tìm kiếm việc làm với Trung tâm Dịch vụ việc làm. Ảnh minh họa: Nhật Dương.
Trong quá trình hưởng trợ cấp thất nghiệp, hằng tháng người lao động phải thông báo tình hình tìm kiếm việc làm với Trung tâm Dịch vụ việc làm. Ảnh minh họa: Nhật Dương.

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội vừa có giải đáp với cử tri về tình trạng trục lợi quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

Theo phản ánh của cử tri, tại Điều 50 Luật Việc làm, thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp.

Cụ thể, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp. Sau đó cứ đóng thêm đủ 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp, nhưng tối đa không quá 12 tháng. Mặc dù vậy, hiện nay tình trạng trục lợi quỹ bảo hiểm thất nghiệp ngày càng trở nên phổ biến.

Nhiều người lao động chủ động xin nghỉ việc, hoặc có hiện tượng chuyển từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn lại quay về đơn vị cũ, để đăng ký hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Vì thế, cử tri kiến nghị các Bộ, ngành, cơ quan liên quan nghiên cứu, xem xét, bổ sung quy định về trách nhiệm của người lao động, và người sử dụng lao động, để hạn chế việc trục lợi hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Về vấn đề này, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thông tin, trong quá trình xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp quy định tại Luật Việc làm, các cơ quan chức năng đã nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia (Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…) thực hiện thành công chính sách bảo hiểm thất nghiệp/bảo hiểm việc làm, và quy chuẩn quốc tế về bảo hiểm thất nghiệp.

Đơn cử, Điều 15 Công ước số 168 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về xúc tiến việc làm và bảo vệ chống thất nghiệp, quy định mức trợ cấp thất nghiệp không ít hơn 45% thu nhập trước đó, hoặc không ít hơn 45% tiền lương tối thiểu theo quy định, hoặc tiền lương của người lao động bình thường, nhưng không ít hơn mức có thể đảm bảo mức sống cơ bản tối thiểu.

Điều 24 Công ước số 102 của ILO về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội quy định, thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 12 tuần (3 tháng) trong thời kỳ 12 tháng.

Điều 48 Bộ luật Lao động cũng quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động, trong việc chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên, từ đủ 12 tháng trở lên khi chấm dứt hợp đồng lao động thuộc một trong các trường hợp theo quy định, mỗi năm làm việc được trợ cấp 1/2 tháng tiền lương (50% mức tiền lương).

Điều 49 Bộ luật này cũng quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động, trong việc chi trả trợ cấp mất việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ 12 tháng trở lên, mà bị mất việc làm trong các trường hợp theo quy định, mỗi năm làm việc trả 1 tháng tiền lương (100% mức tiền lương), nhưng ít nhất phải bằng 2 tháng tiền lương (tối thiểu 200% mức tiền lương).

Như vậy, so với các quy định khác liên quan trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, quy định về bảo hiểm thất nghiệp cũng tương đồng.

Theo đó, thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu của người lao động là 3 tháng, với mức hưởng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp.

Mức hưởng này này bảo đảm cho người lao động giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống trong thời gian chưa tìm được việc làm mới.

Để quỹ bảo hiểm thất nghiệp chi đúng đối tượng, thời gian hưởng, trong quá trình tổ chức triển khai chính sách này, các cơ quan chức năng đã thanh tra, kiểm tra tại nhiều địa phương, doanh nghiệp.

Qua đó, phát hiện có trường hợp người lao động làm việc 12 tháng, lại nghỉ việc để hưởng trợ cấp thất nghiệp 3 tháng, song không nhiều và không phổ biến.

Đa số người lao động phải đáp ứng đủ điều kiện theo quy định Điều 49 Luật Việc làm, thì mới được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Trong quá trình hưởng trợ cấp thất nghiệp, hằng tháng người lao động phải thông báo tình hình tìm kiếm việc làm với Trung tâm Dịch vụ việc làm.

Hơn nữa, nếu họ nghỉ việc cũng mất toàn bộ 100% tiền lương (chưa kể cả khoản tiền thưởng, phụ cấp…) chỉ để hưởng 60% tiền lương. Nếu so sánh lợi ích thì người lao động sẽ thấy việc hưởng trợ cấp thất nghiệp là việc làm không đúng đắn.

Trước những thực tế như vậy, cơ quan chức năng thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng yêu cầu các đơn vị liên quan tăng cường phối hợp để giải quyết khó khăn, vướng mắc về bảo hiểm thất nghiệp, qua đó phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm, gian lận, trục lợi chính sách này.

Bộ cũng yêu cầu các địa phương, Trung tâm Dịch vụ việc làm tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người lao động, và người sử dụng lao động về bảo hiểm thất nghiệp, nhằm hạn chế trục lợi quỹ.