Giao lưu trực tuyến: Kinh tế 2009 nhìn từ doanh nghiệp
Nội dung chính cuộc giao lưu trực tuyến với 5 lãnh đạo doanh nghiệp lớn tại Việt Nam về triển vọng kinh tế 2009
Lãnh đạo một số doanh nghiệp tiêu biểu sẽ cùng độc giả VnEconomy nhìn nhận về bức tranh kinh tế năm 2009, trong cuộc giao lưu trực tuyến chiều nay, 12/12.
Những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới không còn ở mức độ dự báo, đề phòng, mà đã và đang thể hiện cụ thể trong hoạt động của nhiều doanh nghiệp.
Trong nước, hoạt động xuất khẩu, sản xuất kinh doanh ở nhiều ngành hàng đã có dấu hiệu sụt giảm, đình trệ; các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, đặc biệt là nguồn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài, đã chậm lại…
Năm 2009 cũng là thời điểm những cam kết quan trọng trong lộ trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có hiệu lực; bên cạnh việc giảm dần những rào cản thuế quan là bước mở cửa hội nhập sâu hơn ở các lĩnh vực như thị trường bán lẻ, ngân hàng - tài chính… Đi cùng với quá trình này là những cơ hội và thử thách mới.
Lường trước những khó khăn, đánh giá những cơ hội để hoạch định chiến lược kinh doanh, ứng xử và nắm bắt; đây là những nội dung chính của cuộc giao lưu trực tuyến trên VnEconomy diễn ra vào lúc 14 giờ chiều nay, với chủ đề “Kinh tế 2009 nhìn từ doanh nghiệp”.
Diễn giả của buổi giao lưu là lãnh đạo các tổng công ty, tập đoàn kinh tế đang hoạt động trong các lĩnh vực trọng điểm như xuất khẩu, phân phối, dịch vụ, bất động sản, ngân hàng - tài chính:
- Ông Nguyễn Thành Phương, Tổng giám đốc Tổng công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam (Vinaconex)
- Ông Trần Mạnh Cảnh, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro)
- Ông Lê Tiến Trường, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex)
- Ông Lương Hoài Nam, Tổng giám đốc Hãng hàng không Jetstar Pacific
Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu những nội dung chính của cuộc giao lưu trực tuyến:
Hữu Tuấn (ntuan1802@yahoo.com):
Xin hỏi đại diện các doanh nghiệp, trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới, nhiều nhận định của các chuyên gia, bộ ngành trong nước cho rằng Việt Nam không bị ảnh hưởng trực tiếp. Nhưng thực tế là nhiều doanh nghiệp hiện nay đang gặp khó khăn trực tiếp. Vậy thì công tác dự báo của chúng ta có chủ quan không? Với các doanh nghiệp thì ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đó sẽ như thế nào?
Ông Lương Hoài Nam:
Mọi dự báo cũng chỉ là dự báo, có thể đúng mà cũng có thể sai, đặc biệt trong một nền kinh tế, thương mại toàn cầu đan chéo, ảnh hưởng lẫn nhau, tình hình của quốc gia này ảnh hưởng đến quốc gia nọ, ngành này ảnh hưởng đến ngành khách, hàng hóa này ảnh hưởng đến hàng hóa khác.
Trong bối cảnh khủng hoảng, điều quan trọng không phải là dự báo mà mà khả năng điều chỉnh và hành động. Cuộc khủng hoảng trên phạm vi toàn cầu và ngay ở Việt Nam mà thực tế, đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến mỗi một doanh nghiệp, không doanh nghiệp nào có thể đứng ngoài được.
Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải tự đánh giá và hành động. Mỗi quyết định điều chỉnh cũng có thể đúng, có thể sai, nhưng nếu không điều chỉnh gì thì đó sẽ là sai lầm lớn nhất và có thể dẫn đến phá sản.
Theo tôi, hướng điều chỉnh quan trọng nhất của các doanh nghiệp trong thời gian từ nay đến giữa năm 2009 là cắt giảm chi phí, quy mô sản xuất để đối phó với sự sụt giảm doanh thu trước khi các biện pháp kích thích tiêu dùng ở trong nước và ở các nước khác bắt đầu phát huy tác dụng.
Đỗ Văn Châu (d.v.chau@gmail.com):
Tôi thấy rằng chúng ta kỳ vọng quá nhiều vào giá trị mà quá trình gia nhập WTO mang lại. Sau 2 năm gia nhập, các đại biểu đánh giá thế nào giữa thực tế và kỳ vọng? Trân trọng cảm ơn.
Ông Lương Hoài Nam:
Xét về tổng thể thì việc hội nhập WTO đã và đang mang lại nhiều giá trị tích cực cho Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam. Tất nhiên, không có “cuộc chơi” nào chỉ có được mà không có mất.
Những nhà đàm phán WTO đã nói điều này ngay từ đầu. Chúng ta không nên vì một số ảnh hưởng tiêu cực (nói đúng hơn là một số khó khăn, nhiều khi do chính sự thiếu chuẩn bị của bản thân doanh nghiệp) từ việc hội nhập WTO để phủ nhận cái lợi tổng thể.
Ông Lê Tiến Trường:
Với riêng ngành dệt may Việt Nam, việc gia nhập WTO thực sự là một cơ hội lớn, mang lại tốc độ tăng trưởng cao trong năm 2007 và 2008. Lý do là sự gia nhập này đã mở ra các thị trường trước đây bị áp hạn ngạch như Mỹ và châu Âu.
Chính vì thế mà năm 2007, ngành dệt may tăng trưởng 34%. Năm 2008 nhiều khó khăn, ngành vẫn tăng trưởng 21%.
Đối với các ngành nghề kinh doanh khác, vào WTO vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức, vì thị trường mở ra, nhưng thách thức cạnh tranh cũng tăng cao. Bởi thế, nếu không cải thiện được năng lực cạnh tranh thì vẫn không thể tận dụng được cơ hội.
Do đó, điều quan trọng là WTO đang mang lại một sân chơi để doanh nghiệp có điều kiện thể hiện năng lực của mình và chỉ những tổ chức có lợi thế cạnh tranh thực sự mới thu được thắng lợi.
Tôi không cho rằng ta đã kỳ vọng quá nhiều vào WTO, tất cả các doanh nhân đều hiểu rằng, đó chỉ là một cơ hội. Những tổ chức có đối sách chính xác thì chắc chắn đã thu được những bước tiến lớn trong hai năm qua.
Những tổ chức chưa đạt được mong muốn của mình cần xem lại chiến lược cạnh tranh để tận dụng tốt cơ hội của một thị trường mở như WTO.
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Chúng ta không thể không kỳ vọng khi gia nhập WTO, nhưng hai năm chưa phải là thời gian để có thể thấy tác động đột biến ngay.
Phải có cả một quá trình mới có thể thấy rõ tác động. Nhưng điều có thể thấy rõ là vị thế của nước ta đã được nâng nên, qua đó các doanh nghiệp Việt Nam cũng được nhìn nhận và đánh giá cao hơn, bình đẳng hơn với các đối tác nước ngoài.
Cá nhân tôi vẫn đặt nhiều kỳ vọng khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
Hồng Vinh:
Chúng ta đang đối diện với nhiều khó khăn, nói nhiều về khó khăn. Vậy xin lãnh đạo các doanh nghiệp cho biết có những cơ sở nào để lạc quan về kinh tế năm 2009 không?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Quốc hội đã dự báo về suy thoái kinh tế thế giới ảnh hưởng đến nước ta nên đã điều chỉnh chỉ tiêu GDP cho phù hợp.
Chính phủ đã có bước đi phù hợp, giải pháp kịp thời, đặc biệt là về tài chính đã điều hành linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam là nông sản, đây là mặt hàng thiết yếu, nên dù kinh tế thế giới có suy thoái thì kim ngạch xuất khẩu sẽ không ảnh hưởng nhiều, nên chúng ta vẫn có thể có niềm tin vào xuất khẩu năm 2009.
Tôi nhận thấy các doanh nghiệp Việt Nam càng vào lúc khó khăn thì càng có nhiều sáng tạo, có giải pháp mới để đứng vững và phát triển.
Võ Khắc Đức (khac_duc18d2@yahoo.com):
Xin chào các diễn giả. Là doanh nghiệp, đương đầu trực tiếp với cuộc khủng hoảng hiện này, theo nhìn nhận của các quý vị thì các doanh nghiệp nước ta có khó khăn lắm không, ở mức độ thế nào? Khoảng sau bao lâu kinh tế sẽ phục hồi?
Ông Lê Tiến Trường:
Trên bình diện các đơn vị dệt may, đặc thù của chúng tôi là làm hàng xuất khẩu. 90% doanh thu là từ xuất khẩu, với các thị trường chính là Mỹ, Nhật, châu Âu, trong đó 50% kim ngạch là từ thị trường Mỹ. Khi các nước này có suy thoái kinh tế, tất yếu thị trường xuất khẩu của dệt may Việt Nam sẽ bị thu hẹp về quy mô.
Do đó, tốc độ tăng trưởng của ngành dệt may không thể được duy trì ở mức trên 20% như trong các năm trước. Trong quý 4/2008 này, giá trị đơn đặt hàng suy giảm, trong đó, giá trị đơn đặt hàng từ Mỹ đã giảm khoảng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Do đó, chắc chắn, năm 2009 đối với ngành dệt may sẽ là một năm khó khăn.
Các doanh nghiệp sẽ phải tìm ra giải pháp của riêng mình. Trước hết, cần tập trung vào lĩnh vực có ưu thế cạnh tranh, đó là các sản phẩm chất lượng từ khá tới cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, chúng tôi cùng cần có những sản phẩm có ưu thế về giá. Đặc biệt, cần tiết kiệm chi phí để đảm bảo tỷ suất lợi nhuận, khi mà cạnh tranh về giá trong năm tới sẽ rất gay gắt.
Mặt khác, cùng cần tiếp tục mở rộng thị trường không truyền thống như các nước Trung Đông, các nước ít bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng lần này. Cùng với đó, cần phát triển thị trường nội địa thông qua một hệ thống phân phối rộng khắp. Theo ước tính, giá trị thị trường dệt may nội địa cũng đạt tới mức 3 tỷ USD/năm.
Theo tôi, với các doanh nghiệp khác, khó khăn trong năm tới cũng rất nhiều. Các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ có cùng khó khăn như ngành dệt may. Với các doanh nghiệp phục vụ thị trường nội địa, tổng cầu trong nước cũng giảm xuống do thu nhập suy giảm.
Bởi vậy, muốn kinh doanh được, giá cả nói chung của mọi mặt hàng cần phải giảm hơn trong năm nay. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp cần tiết giảm chi phí, hạ giá thành, tăng năng suất lao động... Nếu không làm được những việc này, tình hình năm tới đối với các doanh nghiệp sẽ rất khó khăn.
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Doanh nghiệp nhìn chung là khó khăn, có doanh chịu tác động trực tiếp, có doanh nghiệp gián tiếp nên mức độ khó khăn sẽ khác nhau.
Cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay mang tính toàn cầu, nước ta và đặc biệt là các doanh nghiệp đã hội nhập kinh tế khá sâu rộng nên tác động của thế giới sẽ ảnh hưởng nhiều hơn so với các đợt suy thoái kinh tế trước đây.
Vậy nên việc phục hồi cũng sẽ tùy vào mức độ ảnh hưởng với tiến độ khác nhau, phụ thuộc vào đặc thù và các giải pháp của mỗi doanh nghiệp.
Với Hapro thì ảnh hưởng trực tiếp của suy thoái kinh tế là mảng kinh doanh xuất nhập khẩu nên kim ngạch giảm. Chúng tôi đã tìm các thị trường mới thay thế như thị trường Nga (ít biến động trong cuộc khủng hoảng) và các thị trường ngách khác.
Ông Nguyễn Thành Phương:
Chắc chắn các doanh nghiệp trong nước ta sẽ gặp phải những khó khăn trong tình hình kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh và khả năng tháo gỡ khó khăn của từng doanh nghiệp nên mức độ sẽ khác nhau.
Riêng trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, hiện nay đang chững lại cả về xuất khẩu và tiêu thụ trong nước như gạch, sắt thép, xi măng.
Nhưng đối với các nhà thầu xây dựng lớn lại không bị ảnh hưởng nhiều do giá vật liệu xây dựng đang xuống. Công trình xây dựng gần đây lại được mở ra nhiều. Mới đây, doanh nghiệp lại được tiếp cận với nguồn vốn vay với lãi suất hợp lý hơn.
Theo dự báo của chúng tôi, phải tới quý 3 hoặc quý 4 năm 2009, nền kinh tế nước ta mới có thể trở lại đà phát triển bền vững.
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Tuy nền kinh tế thị trường của Việt Nam chưa phải là bình thông nhau với thị trường thế giới, ảnh hưởng trực tiếp dù nhỏ, nhưng ngược lại sẽ ảnh hưởng gián tiếp và tâm lý lại rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng.
Nên khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn bởi hai nguyên nhân chính:
Thứ nhất, việc hoạch định chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp đôi khi chỉ căn cứ vào thị trường với dự báo chưa được chuẩn xác mà chưa căn cứ vào thực lực của bản thân mình nên có nhiều doanh nghiệp đầu tư theo "phong trào". Trong khi khả năng vốn chủ sở hữu thấp, nguồn vốn đầu tư dựa vào vốn vay ngân hàng là chủ yếu, đến khi ngân hàng tạm dừng cho vay thì các doanh nghiệp đều bị động và không "tự cứu" mình được.
Thứ hai, năm 2008 là năm bước đầu của sự hội quốc tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng các doanh nghiệp Việt Nam chưa có được sự tư vấn đầy đủ về thị trường thế giới nên có những bị động trong xuất nhập khẩu - không khác gì bị động khi thiếu vốn vay ngân hàng.
Về dự báo thời điểm kinh tế phục hồi, tôi cho rằng rất khó đoán, nhưng hy vọng kinh tế sẽ sáng lên sau tháng 9/2009. Khi các ngành chức năng đã thực hiện có hiệu quả gói giải pháp của Chính phủ về ngăn ngừa suy giảm kinh tế và kinh tế thế giới thời điểm ấy cũng bắt đầu "ấm lên".
Lê Hoài Sơn (sonlh2704@gmail.comj):
Kính chào các diễn giả! Trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng đã có những phân tích dự báo cho rằng năm 2009 là một năm kinh tế thế giới và Việt Nam nói riêng sẽ gặp nhiều khó khăn, và tình hình thậm chí còn xấu hơn nửa cuối năm 2008. Xin các ông cho biết đâu là những lĩnh vực đầu tư mà doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên tránh đẩy mạnh trong kế hoạch kinh doanh 2009? Trân trọng cảm ơn.
Ông Lê Tiến Trường:
Cá nhân tôi cho rằng, trong kinh doanh, dù trong điều kiện rất thuận lợi hay rất khó khăn của thị trường, vẫn luôn tồn tại một xác xuất thành công và thất bại nhất định. Có nghĩa là, trong năm 2009, ngay ở những lĩnh vực rủi ro nhất, vẫn có xác xuất thành công.
Vì thế, để quyết định có đầu tư hay không, cần căn cứu vào thông tin cụ thể của dự án mà bạn đang quan tâm mới có thể quyết định được có nên đầu tư hay không.
Còn nếu chỉ căn cứ vào những thông tin chung chung thì sẽ rất khó để ra quyết định, đồng thời, còn có thể đánh mất cả cơ hội kinh doanh.
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Tôi hoàn toàn nhất trí với đánh giá của bạn.
Trước thực tế đó, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn tránh những lĩnh vực đầu tư có thể có rủi ro thì cần đánh giá đúng về năng lực và khả năng tài chính, xác định xem dự định đầu tư thực sự có phù hợp với nhu cầu thiết yếu của xã hội hay không.
Những ngành hàng có tính cạnh tranh cao, có quá nhiều doanh nghiệp đang đầu tư thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên tránh, không nên chạy đua theo phong trào. Nên có sự phân tích đánh giá đúng và tỉnh táo khi đầu tư, ưu tiên đầu tư lĩnh vực mới, đáp ứng dự báo nhu cầu của xã hội.
H.V:
Chúng ta đang đối diện với nhiều khó khăn, nói nhiều về khó khăn. Vậy xin lãnh đạo các doanh nghiệp cho biết có những cơ sở nào để lạc quan về kinh tế năm 2009 không?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Lạc quan đầu tiên là năm 2008 các doanh nghiệp đã được tập dượt khó khăn và năm 2009 dù có khó khăn hơn chút nữa thì các doanh nghiệp cũng đã xác định được và chuẩn bị được những bước đi vững chắc hơn.
Đồng thời, Chính phủ và các ngành chức năng cũng đã thấy rõ khó khăn của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng nên đã có những giải pháp để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn tạm thời, hướng tới tương lai tốt hơn vào cuối năm 2009.
Thư hai, về tâm lý thì các nước đang phát triển vẫn nhìn vào kinh tế của Mỹ và đặc biệt là kết quả bầu cử và thắng cử của ông Obama. Nền kinh tế Mỹ chắc chắn sẽ có biến chuyển tích cực hơn.
Bên cạnh đó, việc giải quyết khủng hoảng đã trở thành nhiệm vụ chung của cả thế giới, các cường quốc lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật... đã có những giải pháp kích cầu và đầu tư. Kinh tế thế giới năm 2009 cũng có triển vọng sáng sủa hơn và đó chính là cơ hội kích cầu xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ ba, giảm phát đang đến gần với các nước trên thế giới, khó khăn thì nhiều nhưng đây cũng là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh với giá thành đầu vào hạ (kể cả giá nhập khẩu) thậm chí chỉ bằng nửa giá cả đầu năm 2008. Cơ hội phát triển sẽ tốt hơn!
Thứ tư, "cái khó ló cái khôn", qua cơn bão tài chính năm 2008 các doanh nghiệp có thời gian tự nhìn nhận lại mình - nhất là trong lĩnh vực đầu tư, đã rút ra được nhiều bài học và xác định được mình đang đứng ở đâu để có bước đi thế nào cho phù hợp, đồng thời các doanh nghiệp đều nghĩ đến việc cải cách, cạnh tranh, bứt phá để chất lượng hoạt động của từng doanh nghiệp hiệu quả hơn.
SME (doanhnghiepnho@yahoo.com):
Các đại biểu là lãnh đạo của các doanh nghiệp lớn, thuộc nhà nước hoặc có phần vốn lớn của nhà nước. Trong khi khó khăn hiện nay tập trung ở nhiều doanh nghiệp nhỏ, tư nhân. Vậy các đại biểu có hiểu được khó khăn của những doanh nghiệp nhỏ đó không?
Ông Lương Hoài Nam:
Jetstar Pacific nằm trong số 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, nhưng cũng có thể coi là một doanh nghiệp vừa và nhỏ nếu so sánh với thế giới. Những khó khăn hiện nay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là có thật, nhưng đừng nghĩ các doanh nghiệp nhà nước lớn không có khó khăn hoặc ít khó khăn hơn.
Một lý do rất đơn giản: thuyền lớn sóng lớn. Tôi cho rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể vượt qua giai đoạn khủng hoảng dễ hơn so với các doanh nghiệp lớn.
Sỹ Hoàng (hoangbs2002@yahoo.com):
Tôi nghĩ với những doanh nghiệp vững mạnh thì năm 2009 là năm nhiều cơ hội để chiếm lĩnh thị phần, vượt xa những đối thủ cạnh tranh. Ý kiến của các doanh nghiệp thế nào? Trân trọng cảm ơn!
Ông Lương Hoài Nam:
Trong thời buổi khủng hoảng cũng xuất hiện một số cơ hội tốt mà doanh nghiệp có thể tận dụng để chiếm lĩnh thị phần, bứt lên đối thủ cạnh tranh.
Hãng hàng không giá rẻ Air Asia của Malaysia bắt đầu hoạt động ngay sau cuộc khủng bố 11/9 gây ảnh hưởng kinh hoàng đến ngành vận tải hàng không thế giới, kể cả hãng nhà nước Malaysia Airlines. Air Asia đã tận được giá máy bay rẻ, giá phi công rẻ, phí sân bay rẻ… để phát triển hiệu quả bên cạnh một hãng nhà nước đang lâm vào khó khăn.
Nhưng những trường hợp như Air Asia không có nhiều. Khi có một Air Asia thành công thì có tới hàng chục hãng hàng không phá sản do sự kiện 11/9.
Lời khuyên của tôi đối với các doanh nghiệp là cẩn trọng, đừng manh động. Khi VN-Index 500 điểm có người nghĩ cơ hội đầu tư đến rồi, đây là lúc mua vào. Ngày hôm nay, VN-Index chỉ còn hơn một nửa con số đó…
Một số bạn đọc:
Những tháng cuối năm tình hình xuất khẩu đã rất khó khăn. Xin hỏi trong năm 2009 tình hình có thể cải thiện hơn không?
Ông Lê Tiến Trường:
Thị trường xuất khẩu liên quan chặt chẽ tới tình hình kinh tế thế giới, cụ thể là tình hình kinh tế của các nước là thị trường xuất khẩu. Cho nên, nói chuyện tín hiệu xuất khẩu có tốt hay không, cần gắn cụ thể với một nền kinh tế nào đó.
Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là Mỹ và các nước châu Âu, Nhật Bản, cho nên, năm 2009 sẽ tiếp tục khó khăn.
Dự báo của IMF vừa qua cho rằng, kinh tế Mỹ có thể sụt giảm 0,5 - 0,7%, Nhật giảm trên 1%, châu Âu giảm 0,5 - 0,8%. Do đó, tổng quát thì thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm tới là khó khăn.
Tuy nhiên, từng doanh nghiệp với sáng tạo của mình, vẫn hoàn toàn có cơ hội tăng trưởng nếu tìm được ngách thị trường mà ở đó họ phát huy được lợi thế cạnh tranh cao nhất của mình, qua đó làm tăng thị phần của mình trên thị trường.
Rõ ràng, áp lực trong quản lý, trong chiến lược kinh doanh tới các nhà quản lý trong năm 2009 sẽ nặng nề hơn các năm trước.
Với riêng ngành dệt may, dự kiến năm 2009, tăng trưởng xuất khẩu chỉ đạt 5 - 7%. Tất nhiên, đây vẫn là một con số đầy thách thức, vì nhu cầu nhập khẩu dệt may của các thị trường chính năm tới được dự báo sẽ suy giảm xấp xỉ 10%. Trong đó, suy giảm nhiều nhất là nhu cầu các sản phẩm đắt tiền.
Các đơn vị sản xuất hàng cao cấp, vì thế, cần chuẩn bị theo hai hướng. Một là sản xuất hàng cao cấp cho nội địa. Hai là định hướng mở ra các thị trường mới.
Chondat:
Xin ông Nguyễn Đức Hưởng cho biết tình hình lãi suất cho vay và huy động năm 2009 sẽ diễn biến như thế nào?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Hiện nay chúng ta đang đứng trước nguy cơ suy giảm của nền kinh tế, vì vậy cung và cầu của thị trường đều có xu hướng giảm, từ đó cung cầu vốn cũng sẽ giảm theo. Vì vậy năm 2009 lãi suất huy động và cho vay có thể sẽ xác lập một mặt bằng mới theo xu hướng thấp hơn năm 2008.
Có như vậy, các doanh nghiệp mới "dễ thở" và hoạt động ngân hàng cũng sẽ bớt rủi ro hơn, bởi "bong bóng" giá cả thị trường năm 2009 sẽ "xẹp" hơn năm 2008. Như vậy, cả doanh nghiệp và ngân hàng dễ gần nhau hơn, cùng nhau phát triển theo đúng quy luật thị trường.
Chondat:
Xin đại diện các doanh nghiệp cho biết nhận định về triển vọng phát triển ngành xây dựng, bất động sản, ngân hàng trong năm 2009.
Ông Nguyễn Thành Phương:
Triển vọng của ngành xây dựng trong năm 2009 sẽ tiếp tục phát triển. Đặc biệt, là các công trình về hạ tầng kỹ thuật sử dụng vốn tài trợ từ WB, ADB, ODA. Ngoài ra, các công trình như thủy điện, cầu đường, cấp thoát nước… cũng đang nhận được sự quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư và Chính phủ.
Hiện hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam so với các nước phát triển và yêu cầu phát triển của đất nước đề ra còn rất nhiều việc phải làm. Đây sẽ là cơ hội lớn cho ngành xây dựng phát triển.
Đối với thị trường bất động sản, do có sự đổ vỡ về bong bóng bất động sản trên thế giới và sự thắt chặt tín dụng đối với cho vay bất động sản của Ngân hàng Nhà nước đầu năm 2008 đã làm cho giá bất động sản trở về gần hơn hơn với giá trị thực.
Trong năm 2009, cầu đối với bất động sản sẽ suy giảm ở Việt Nam và mức giá cũng hợp lý hơn, nên những nhà kinh doanh bất động sản phải có những điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho phù hợp hơn trong tình hình mới.
Một số bạn đọc:
Giá nhiên liệu đã giảm rất mạnh thời gian qua, như thế Jetstar Pacific sẽ có nhiều thuận lợi để bù đắp lại những thiệt hại từ giá nhiên liệu đầu năm 2008? Thuận lợi đó như thế nào và giá vé có giảm theo không?
Ông Lương Hoài Nam:
Ngày 14/12 tới chúng tôi sẽ công bố chương trình “Cam kết giá vé rẻ nhất”, đảm bảo giá vé của Jetstar Pacific luôn luôn là giá vé rẻ nhất trên cùng một đường bay. Đây là cam kết pháp lý chứ không phải chỉ là lời hứa suông.
Anh Minh (tinhomnay@yahoo.com):
Có thể xác định bao giờ Jetstar Pacific vượt qua được những khó khăn hiện nay?
Ông Lương Hoài Nam:
Yêu cầu của các cổ đông của chúng tôi rất rõ ràng, ngắn gọn: làm thế nào thì làm, năm 2009 phải có lãi, kể cả trong điều kiện khủng hoảng kinh tế.
Hoàng Lan (hoanglan_111@yahoo.com):
Thời gian qua có khá nhiều lời bình luận trái chiều về hoạt động của Jetstar Pacific, có ý kiến nào thực sự bổ ích với Jetstar Pacific trong chặng đường khó khăn phía trước?
Ông Lương Hoài Nam:
Jetstar Pacific đã làm được một số việc: bước đầu tạo sự cạnh tranh trên thị trường hàng không nội địa, mang lại dịch vụ hàng không giá rẻ cho gần 1,5 triệu hành khách trong năm 2008, trong đó có nhiều người lần đầu tiên đi máy bay. Một trách nhiệm lớn mà chúng tôi chưa làm được, đó là mang lại lợi nhuận cho các cổ đông.
Chúng tôi nợ các cổ đông điều này để thực hiện trong năm sau, nhưng vẫn không thay đổi mục tiêu giá vé rẻ.
Thanh Chương (ducjo2000@yahoo.com, 12:07 11/12/2008):
Tôi chờ đợi có các chặng bay ngắn như Hà Nội - Đà Nẵng, Hà Nội - Huế, thậm chí Hà Nội - Vinh cho những kỳ nghỉ ngắn ngày, hoặc về quê. Bao giờ thì Jetstar mới có thể đáp ứng được? Trân trọng cảm ơn.
Ông Lương Hoài Nam:
Chào bạn, đường bay Hà Nội - Vinh ngắn quá, chưa kịp cất cánh hết đã phải hạ cánh, chắc sẽ không có hãng nào bay. Hà Nội - Đà Nẵng thì Jetstar Pacific đang bay, còn Hà Nội - Huế chúng tôi cũng có kế hoạch nhưng đang tạm hoãn do điều chỉnh kế hoạch đối phó khủng hoảng.
Hồng Minh (och_thk@yahoo.com):
Không hiểu sao tôi thấy thương hiệu Pacific Airlines quen thuộc hơn và gần gũi hơn. Không biết với anh Nam thì thế nào? Vì sao lại đổi tên là Jetstar Pacific, mà gần đây tôi mới biết đó là tên mới của Pacific Airlines trước đây?
Ông Lương Hoài Nam:
Việc chúng tôi mua thương hiệu Jetstar của hãng hàng không giá rẻ Jetstar Airways (Úc) thuộc Tập đoàn Qantas Airways là bước chuẩn bị cho việc mở rộng mạng đường bay quốc tế nơi mà thương hiệu Pacific Airlines rất yếu, không đủ sức cạnh tranh.
Ví dụ, Jetstar Airways đã chi phí 30 triệu USD để quảng bá thương hiệu Jetstar ở Nhật Bản. Nếu chúng tôi bay đến Nhật Bản dưới thương hiệu Pacific Airlines chắc chắn cũng phải đầu tư một khoản kha khá để quảng bá thương hiệu của mình, còn sử dụng luôn thương hiệu Jestar thì tiết kiệm được khoản này, tiết kiệm cả thời gian nữa.
Đồng thời, việc khai thác dưới thương hiệu Jetstar cho phép chúng tôi cung ứng nhiều dịch vụ du lịch có sẵn của hệ thống Jetstar toàn cầu mà chúng tôi một mình không đủ sức làm, ví dụ như đặt chỗ khách sạn, bảo hiểm du lịch, thuê xe ô-tô ở các điểm đến…, không chỉ ở Việt Nam mà ở mọi nơi nào có ít nhất một hãng hàng không mang thương hiệu Jetstar có đường bay.
Bạn có thể tự kiểm nghiệm: chưa có hãng hàng không Việt Nam nào có những dịch vụ này bán kèm vé máy bay. Chúng tôi đã nghiên cứu và thấy tự làm không phải là dễ, chưa nói đến chuyện giá của mình sẽ cao hơn.
Hoàng Hưng Hào:
Giá hàng xuất khẩu liên tục sụt giảm từ cuối năm 2008, đặc biệt là hàng nông sản, thủy sản, đồ gỗ. Xin các doanh nghiệp dự báo tình hình giá trong năm 2009 sẽ như thế nào?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Thực ra năm 2008 các mặt hàng này có thời điểm tăng ảo và hiện nay đã về đúng giá trị thực của nó chứ không tới mức "liên tục sụt giảm". Kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt và vượt mục tiêu đặt ra.
Năm 2009 tất nhiên những mặt hàng này sẽ chịu ảnh hưởng chung, nhưng nếu các doanh nghiệp biết khai thác các thị trường ít chiụ ảnh hưởng của biến động kinh tế và duy trì tốt các đối tác truyền thống tại các thị trường cũ thì những ngành hàng này vẫn có khả năng phát triển.
Phạm Văn Mạnh (vp.manh@gmail.com):
Xin hỏi ông Nguyễn Thành Phương. Ông có thể cho biết tăng trưởng về doanh thu của Vinaconex năm 2009 sẽ ở mức nào? Hướng đầu tư trong năm 2009 và 2010 của Vinaconex sẽ được điều chỉnh như thế nào? Năm 2009 Vinaconex có tiến hành cắt giảm nhân công hay không? Cám ơn!
Ông Nguyễn Thành Phương:
Về tăng trưởng của Vinaconex trong 2009, doanh thu sẽ tăng khoảng 18% so với 2008. Tỷ lệ lợi nhuận tăng khoảng 20% so với 2008.
Hướng đầu tư của Vinaconex trong hai năm tới sẽ tập trung vào các giá trị cốt lõi là xây dựng và kinh doanh bất động sản, sản xuất vật liệu xây dựng, thương mại.
Sự phát triển của Vinaconex thường phải đi kèm với sự phát triển của nhân lực và chuyên nghiệp hóa lực lượng xây dựng theo những chuyên ngành cụ thể. Do đó, Vinaconex sẽ chỉ cắt giảm những nhân lực không phù hợp và tiếp nhận những nhân lực có tay nghề và chuyên môn cao về Tổng công ty.
Thế Hùng:
Chào anh Trường, tôi nhớ hội thảo tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân mới đây, anh có nói là trong khó khăn thì liên kết các công ty thành viên để giảm chi phí sản xuất, là một giải pháp tốt trong khó khăn. Anh có thể phân tích cụ thể hơn không?
Ông Lê Tiến Trường:
Liên kết giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành với mục tiêu tận dụng nguồn lực chung như tồn kho nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, khả năng sản xuất với chi phí thấp nhất cho một mặt hàng nào đó.
Tức là thông qua liên kết để giải quyết hai vấn đề: Một là giảm được nguồn vốn lưu động; hai là phân công trong chuỗi liên kết đúng đơn vị có lợi thế cạnh tranh tốt nhất trong một loại mặt hàng sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó.
Cụ thể là, nếu có một hệ thống liên thông để kiểm soát tồn kho nguyên vật liệu của các doanh nghiệp sản xuất cùng dạng mặt hàng, sẽ có khả năng tận dụng được nguồn nguyên liệu mà đơn vị này đang sẵn có, mà đơn vị khác lại cần dùng.
Tất nhiên, để giải quyết vấn đề liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành, cần sự đồng thuận tuyệt đối giữa lãnh đạo các doanh nghiệp đảm bảo thực hiện mọi cam kết của chuỗi liên kết. Thông thường, biện pháp này có thể được áp dụng trong các tập đoàn kinh tế có sự chia sẻ nguồn vốn chung và có sự điều tiết của cơ quan lãnh đạo tập đoàn.
Thu Hương:
Chào bác Phương, cháu là một sinh viên. Cháu có suy nghĩ thế này: kinh tế thế giới khó khăn, thất nghiệp là một xu hướng trong năm 2009. Thế thì những thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam có giảm nhu cầu không? Cháu biết Vinaconex là một đơn vị có hoạt động xuất khẩu lao động rất mạnh. Cháu cảm ơn.
Ông Nguyễn Thành Phương:
Chào cháu Hương.
Hiện nay, các thị trường xuất khẩu lao động truyền thống của Vinaconex như: Trung Đông, Hàn Quốc, Nhật Bản có biến động đi xuống. Nhưng Vinaconex đã tính tới phương án mở rộng thị trường ra các quốc gia khác ở châu Âu hay Angieri.
Bên cạnh đó, phương thức xuất khẩu lao động cũng có sự thay đổi từ xuất khẩu lao động thuần túy sang nhận thầu xây dựng tại nước ngoài. Bác nghĩ về tổng thể trong năm 2009, tình hình xuất khẩu lao động sẽ không bị ảnh hưởng nhiều.
Nguyen Duc Thien (Maihoacu@yahoo.com):
Xin hỏi ông Lê Tiến Trường, năm 2009, nếu phải cắt giảm nhân công thì Tập đoàn Dệt may sẽ cắt giảm bao nhiêu %?
Ông Lê Tiến Trường:
Trước hết, cần khẳng định với bạn, lãnh đạo Vinatex quyết tâm duy trì đủ việc làm cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của mình.
Tuy nhiên, trong điều kiện khó khăn về thị trường, số lượng việc làm chỉ có thể được duy trì ổn định nếu năng suất lao động, giá thành sản xuất của các đơn vị giảm hơn so với các năm trước, qua đó, doanh nghiệp duy trì được đơn hàng vì lợi thế cạnh tranh của mình.
Chính vì vậy, người lao động có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì được số lượng đơn hàng, tức là duy trì được việc làm. Làm tốt việc cải tiến năng suất và tiết kiệm, tôi tin rằng, Tập đoàn Dệt may sẽ duy trì được số lượng lao động hiện tại.
Chu Thị Huyền:
Xin cho biết tình hình đơn hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp chuẩn bị cho năm 2009, có những thay đổi gì so với đầu năm 2008? Trân trọng cảm ơn.
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Chào bạn, có thể nói các ngành hàng chủ lực đã có dự báo đơn hàng tương đối ổn định cho năm 2009, như dầu thô, gạo, cao su... Một số ngành hàng như dệt may, da giày, thủy sản vẫn duy trì quan hệ tương đối ổn định với các đối tác truyền thống.
Theo dự báo biến động tỷ giá sẽ không lớn như đầu năm 2008, nên khả năng duy trì mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu khoảng 20% nhiều khả năng sẽ đạt.
Với Hapro chúng tôi thì những đơn hàng như nông sản, rau củ quả chế biến xuất sang thị trường Nga đã được thỏa thuận ổn định cho năm 2009 với mức tăng trưởng 30% trở lên (đây là thị trường mới).
Còn với các thị trường khác, chúng tôi cơ bản vẫn duy trì ổn định.
Đỗ Kim Tuấn:
Những thị trường xuất khẩu trọng điểm của ta là Mỹ, EU, Nhật Bản, nhưng kinh tế tại đây đều rơi vào khó khăn. Các doanh nghiệp có thể chuyển hướng khai thác những thị trường mới không và có thể bù đắp lại không?
Ông Lê Tiến Trường:
Tìm kiếm thị trường mới để bù đắp chắc chắn là giải pháp đầu tiên tất cả các doanh nghiệp đều nghĩ tới trong năm 2009.
Nhưng phải thừa nhận rằng, không còn nhiều thị trường mới và tiềm năng trên thế giới để ta tấn công. Ba nền kinh tế chủ chốt của thế giới là Mỹ, Nhật và EU đều suy giảm, có nghĩa là trên 70% giá trị của nền kinh tế thế giới giảm sút.
Vì vậy, khả năng bù đắp sự suy giảm của ba nền kinh tế này là rất khó khăn. Tất nhiên, đây là khó khăn trên phương diện vĩ mô, nhưng nói tới mức độ vi mô ở cấp độ doanh nghiệp, việc bù đắp thiếu hụt này là điều có thể làm được.
Các thị trường mới có thể nhắm tới là thị trường Trung Đông, châu Phi...
Vũ Phong (phongv1980@yahoo.com):
Thưa ông Hưởng, theo ông các ngân hàng có sẵn sàng tài trợ cho các doanh nghiệp trong thời điểm khó khăn này không? Theo nhiều nguồn thông tin thì hiện tại các ngân hàng đang thừa vốn, tuy nhiên các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay lại không nhiều. Trong trường hợp này giải pháp của ông sẽ như thế nào?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Tôi nghĩ dù trong bất cứ điều kiện nào, các ngân hàng luôn luôn sẵn sàng tài trợ cho các doanh nghiệp thiếu vốn nhưng làm ăn có hiệu quả. Vì nếu không có khách hàng thì không có sự tồn tại của ngân hàng.
Hiện nay có tình trạng nhiều ngân hàng thừa vốn, nhưng nhiều doanh nghiệp lại không vay được vốn. Đó là sự thật!
Nhưng lỗi có thể do cả hai bên, vẫn còn một khoảng cách về sự tin tưởng. Ngân hàng thì đi tìm các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, minh bạch trong hoạt động tài chính, kinh tế. Nhưng các doanh nghiệp ấy lại đang chờ vào khả năng hạ lãi suất tiếp nên chưa vội vã vay ngay. Mặc dù hồ sơ vay vốn đã làm sẵn.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đã đến gõ cửa ngân hàng, nhưng ngân hàng lại chưa sẵn sàng cho vay vì các lý do:
Thứ nhất, có nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng vì quá thận trọng nên cho rằng tất cả các ngành kinh tế của Việt Nam đang khó khăn, thậm chí các doanh nghiệp lỗ và giải thể bất cứ lúc nào. Nên tạo nên tâm lý "sợ" doanh nghiệp.
Thứ hai, ngân hàng muốn cho vay nhưng nhiều dự án của các doanh nghiệp chưa đủ thuyết phục về hiệu quả kinh tế. Đặc biệt, cũng có rất nhiều doanh nghiệp, cán bộ tín dụng ngân hàng biết rõ là có khả năng trả nợ nếu vay vốn ngân hàng.
Nhưng sổ sách hạch toán lại không minh bạch. Hiện tượng hai sổ sách để trốn thuế còn rất phổ biến cho nên mặc dù thấy rõ khả năng trả nợ nhưng hồ sơ pháp lý không đảm bảo thì ngân hàng cũng không dám cho vay.
Về giải pháp cho vấn đề này, tôi cho rằng nhóm khách hàng thứ nhất (làm ăn có hiệu quả), phải tính đến phương châm hai bên cùng có lợi, ngân hàng phải chủ động bàn bạc với khách hàng về cơ chế áp dụng lãi suất linh hoạt có thể thay đổi theo từng thời điểm phù hợp, không áp dụng lãi suất cố định khi cho vay để khác hàng không phải đợi lãi suất xuống thấp mới vay sẽ mất cơ hội kinh doanh.
Nhóm khách hàng thứ hai (chưa tin nhau), cán bộ tín dụng ngân hàng phải thực hiện phương châm "cùng ăn cùng ở cùng làm" để hiểu rõ doanh nghiệp hơn. Không thể vì "con sâu bỏ rầu nồi canh".
Tuy có ngành kinh tế khó khăn nhưng không phải tất cả các doanh nghiệp trong ngành ấy đều bế tắc. Việc cho vay doanh nghiệp trong giai đoạn này là khó khăn, nhưng tư vấn được cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn mới là cái quý giá nhất.
Đối với nhóm khách hàng thứ ba (chưa đủ độ minh bạch), thì phải thực hiện theo phương châm "sống và làm việc theo đúng pháp luật". Thị trường tuy có khó khăn nhưng rất rộng mở, nên nếu "có duyên" hoặc biết tạo ra "duyên" thì doanh nghiệp và ngân hàng sẽ gắn chặt bên nhau cùng phát triển.
Nguyễn Thu Phương:
Tôi có đọc thông tin là xuất hiện dấu hiệu phá sản ở các doanh nghiệp dệt may trước tình hình kinh tế khó khăn. Xin hỏi các đại biểu, ngoài ra còn lĩnh vực nào hiện nay sẽ đối mặt với vấn đề phá sản?
Ông Lê Tiến Trường:
Nhìn chung, những doanh nghiệp làm thương mại thuần túy, những doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu là những doanh nghiệp có xác xuất cao trong việc đối mặt với những khó khăn kinh doanh và tài chính. Lý do tương đối đơn giản: Nhu cầu thương mại giảm đi, nhu cầu hàng xuất khẩu cũng giảm đi.
Do đó, những doanh nghiệp không có độ khác biệt hóa cao, hay giá thành thấp, sẽ phải đối diện nhiều khó khăn.
Đ.D.Chung:
Ngày 1/1/2009, các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập công ty phân phối hàng hóa 100% vốn nước ngoài. Liệu ngành phân phối trong nước sẽ cạnh tranh với khối ngoại dựa trên các chiến lược nào? Chiến lược nào được cho là chủ đạo?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Từ 1/1/2009, theo cam kết Việt Nam khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ mở cửa thị trường bán lẻ cho các doanh nghiệp, các tập đoàn bán lẻ nước ngoài vào cùng khai thác. Theo tôi, đây là một thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, tuy nhiên trong cạnh tranh các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam không chỉ có những thách thức mà còn có các cơ hội.
Là doanh nghiệp Việt Nam nên rất hiểu nhu cầu tiêu dùng của người Việt. Hơn nữa, hiện tại các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đã chủ động đầu tư xây dựng hệ thống riêng của mình và đã chiếm được niềm tin của người tiêu dùng, đã xây dựng được một số thương hiệu bán lẻ có uy tín như: Saigon Coop, Hapro mart, Intimex...
Các đơn vị này đã quan tâm đầu tư đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, dịch vụ, thái độ phục vụ khách hàng, đầu tư áp dụng công nghệ vào quá trình quản lý và chủ động xây dựng hệ thống logistic và thiết lập hệ thống cung cấp nguồn hàng ổn định, có nguồn gốc xuất xứ, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và giá cả hợp lý, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh khi có các đối tác nước ngoài cùng khai thác thị trường bán lẻ.
Khi các tập đoàn bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam, các doanh nghiệp bán lẻ trong nước cũng qua đây học hỏi được rất nhiều như kinh nghiệm quản lý vận hành hệ thống bán lẻ, khai thác nguồn hàng, công nghệ quản lý hàng hóa...
Đỗ Bích Hường:
Xin hỏi các diễn giả, có nên duy trì chính sách VND yếu so với ngoại tệ mạnh để hỗ trợ xuất khẩu – hạn chế nhập khẩu năm 2009? Nếu chính sách đó được thực thi thì nhập siêu của Việt Nam 2009 sẽ khoảng bao nhiêu tỷ USD?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm "duy trì chính sách VND yếu" so với ngoại tệ để hỗ trợ xuất khẩu... Tôi lại có ý kiến khác, "kích" phải trên cơ sở biết rõ cầu.
Tôi tin tưởng rằng Chính phủ sẽ điều hành tỷ giá linh hoạt trên cơ sở nhu cầu xuất khẩu thực tế chứ không thể cứ thực hiện chính sách VND yếu là hỗ trợ được xuất khẩu, vì nếu không tôn trọng quy luật thị trường thì giải pháp sẽ có tác dụng ngược lại, diễn biến tình hình xấu đi, hàng thì không xuất được mà tiền vẫn mất giá.
Nhập siêu của Việt Nam năm 2008 khoảng 18 tỷ USD. Năm 2009 chắc chắn sẽ giảm đi vì thực hiện gói giải pháp chống lạm phát và ngăn ngừa giảm phát của Chính phủ đều kích thích xuất khẩu, đồng thời quản lý chặt nhập khẩu.
Hữu Tuấn (ntuan1802@yahoo.com):
Xin hỏi đại diện các doanh nghiệp, trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới, nhiều nhận định của các chuyên gia, bộ ngành trong nước cho rằng Việt Nam không bị ảnh hưởng trực tiếp. Nhưng thực tế là nhiều doanh nghiệp hiện nay đang gặp khó khăn trực tiếp. Vậy thì công tác dự báo của chúng ta có chủ quan không? Với các doanh nghiệp thì ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đó sẽ như thế nào?
Ông Lê Tiến Trường:
Tôi cho rằng, ở giai đoạn đầu, các dự báo về ảnh hưởng không trực tiếp là những dự báo về thị trường tài chính, ngân hàng, cổ phiếu do việc không tham gia trực tiếp của các tổ chức tài chính của Việt Nam vào thị trường Mỹ, chứ không phải là những dự báo liên quan tới suy giảm kinh tế toàn cầu.
Do vậy, không thể nói rằng, đây là những dự báo mang tính chất chủ quan. Thực tế thì diễn biến của thị trường tài chính và kinh tế thế giới thời gian qua là những diễn biến rất khó dự báo, không chỉ đối với Việt Nam, mà đối với cả thế giới.
Tất nhiên, công tác dự báo của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, nhưng chính qua giai đoạn khó khăn này, theo tôi, năng lực, trình độ và sự quan tâm tới công tác dự báo đã có những thay đổi lớn. Hy vọng, đó sẽ là tiền đề cho chất lượng dự báo tốt hơn trong tương lai.
Trần Đức Vinh (tranvinh.tranvinh@gmail.com):
Xin ông Lê Tiến Trường cho biết: ông đánh giá như thế nào về tình hình dệt - may năm 2009? Sản xuất của các doanh nghiệp trong nước cũng như tình hình thị trường dệt may thế giới? Liệu ngành dệt may có suy giảm mạnh như các ngành khác không trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới?
Ông Lê Tiến Trường:
Theo dự báo của chúng tôi, dệt may Việt Nam năm 2009 vẫn có khả năng đạt tăng trưởng xuất khẩu 4 - 6%, mặc dù các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ, EU, và Nhật Bản đều suy giảm.
Tất nhiên so với tốc độ tăng trưởng liên tục trên 20% trong nhiều năm trước đây, mức dự báo tăng trưởng này là mức thấp, nghĩa là số lượng đơn đặt hàng tới các doanh nghiệp sẽ khan hiếm hơn các năm trước.
Tôi khẳng định, dệt may sẽ không suy giảm mạnh như một số lĩnh vực khác, nhưng cạnh tranh gay gắt hơn. Những đơn vị mới đầu tư, mở rộng, sẽ gặp khó khăn nhiều hơn do đơn hàng không dồi dào, chỉ đủ cho những “mối hàng” quen.
Trong dự báo, chúng tôi có ba kịch bản cho thị trường:
Thứ nhất, nếu các nền kinh tế trọng yếu trên thế giới phục hồi nhanh, trở lại quỹ đạo tăng trưởng vào quý 3/2009 thì dệt may cả năm có thể tăng trưởng trên 8%.
Thứ hai, nếu các nền kinh tế chưa phục hồi trong 2009, nhưng đã chấm dứt đà suy giảm, thì cả năm ngành có thể tăng trưởng 6%.
Thứ ba, nếu các nền kinh tế suy giảm chưa tới đáy trong năm 2009, tăng trưởng của ngành có thể chỉ đạt khoảng 4%.
Nguyễn Thu Phương:
Việc hội nhập sẽ mở rộng cho đối thủ nước ngoài với lĩnh vực phân phối, vậy ông Cảnh đánh giá thương hiệu của Hapro hiện nay đã đủ mạnh để cạnh tranh với họ trên chính sân nhà chưa? Và các giải pháp của tập đoàn là độc lập hay hợp tác với họ?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Trong lĩnh vực phân phối, thương hiệu Hapro Mart hiện nay đã được người tiêu dùng tín nhiệm. Tuy nhiên, để nói đủ mạnh để cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài trên chính sân nhà hay chưa thì cũng chỉ là tương đối.
Chúng tôi đã có quá trình chuẩn bị và từ tháng 11/2006 đã công bố nhận diện thương hiệu bán lẻ Hapro Mart. Đến nay hệ thống đã có tại Hà Nội và 9 tỉnh, thành miền bắc, đã đầu tư ứng dụng công nghệ phần mềm quản lý, đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, thiết lập hệ thống các nhà cung cấp, hệ thống kho tàng phương tiện vận tải...
Đây là bước đầu trong quá trình xây dựng, chúng tôi tiếp tục triển khai các bước tiếp theo để mở rộng hệ thống mạng lưới hạ tầng tới hầu hết các tỉnh, trước mắt tập trung ở các tỉnh miền bắc. Đây cũng là tạo vị thế trong cạnh tranh và hợp tác với các đối tác nước ngoài.
Quốc Dũng:
Xin hỏi anh Phương, anh có thể cho biết Vinaconex trong năm nay lỗ hay lãi từ bất động sản?
Ông Nguyễn Thành Phương:
Chào anh Dũng. Tôi có thể khẳng định năm 2008, Vinaconex đã lãi từ kinh doanh bất động sản. Những năm tiếp theo, Vinaconex vẫn tiếp tục thu được lợi nhuận từ lĩnh vực kinh doanh này.
Cụ thể, dự án khu đô thị mới Trung Hòa- Nhân Chính, khu đô thị Bắc An Khánh và khu du lịch Cái Giá- Cát Bà (Hải Phòng ) đã và đang mang lại nhiều lợi nhuận cho Vinaconex.
Như Lan CMC:
Tôi xin hỏi tại sao các doanh nghiệp ngành xây dựng, bất động sản hiện nay không mặn mà với các dự án nhà ở xã hội, cho người thu nhập thấp? Không biết bao giờ những người làm công ăn lương như chúng tôi mới mua nổi nhà với giá như hiện nay, dù đã giảm mạnh trong năm 2008?
Ông Nguyễn Thành Phương:
Hiện các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản chưa quan tâm nhiều tới các dự án nhà ở xã hội do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đối với các dự án này lợi nhuận mang lại cho các công ty đầu tư không cao. Khả năng thu hồi vốn chậm.
Thứ hai, chính quyền địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức và chưa có cơ chế ưu đãi đặc biệt đối với chính sách đất đai để xây dựng các dự án này.
Kinh nghiệm thực tế của Vinaconex trong việc thực hiện dự án thí điểm xây nhà ở xã hội cho những người có thu nhập thấp tại Kim Chung- Đông Anh (Hà Nội) đã cho thấy: Khi có sự quan tâm của chính quyền địa phương hỗ trợ về chính sách đất đai và sự đặt hàng của khu công nghiệp Bắc Thăng Long thì dự án được triển khai rất tốt.
Vì vậy, để các doanh nghiệp xây dựng quan tâm hơn tới đầu tư vào những dự án này rất cần có sự quan tâm của chính quyền địa phương như cơ chế thí điểm của thành phố Hà Nội. Khi doanh nghiệp có được những hỗ trợ trên thì những người lao động có thu nhập thấp sẽ có nhiều cơ hội mua được nhà ở với mức giá phù hợp.
Phanhung (trantiep@yahoo.com):
Xin chào ông Hưởng, ông đánh giá thế nào về hoạt động của các ngân hàng trong năm 2009? Theo ông vấn đề lớn nhất mà các ngân hàng Việt Nam phải đối mặt trong năm 2009 là gì?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Năm 2009 sẽ là năm cực kỳ khó khăn của hoạt động ngân hàng Việt Nam, vì đó là "điểm rơi" khó khăn được hình thành từ những năm trước như hậu quả của đầu tư chứng khoán, liên doanh liên kết và đầu tư bất động sản.
Đồng thời, 2009 cũng là năm khó khăn của nền kinh tế, của các doanh nghiệp - trong đó có ngân hàng.
Vấn đề lớn nhất mà ngân hàng thương mại Việt Nam phải đối mặt không phải là "mất gì" mà phải làm thế nào để bước đi vững chắc sau khó khăn. Kinh nghiệm của các ngân hàng trên thế giới, hậu khủng hoảng thường là bước đột phá vượt bậc của sự cải tiến, đổi mới hoạt động để cạnh tranh và tạo thế tốt hơn.
Hiện nay, nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam đang phải đối mặt và tập trung quá nhiều sức vào việc xử lý khó khăn trước mắt mà quên nhiệm vụ lớn nhất phải đối mặt năm 2009 và những năm tiếp theo là hoạch định cải tiến, đổi mới thế nào để tồn tại và phát triển.
Trần Đức Vinh (tranvinh.tranvinh@gmail.com):
Xin ông Lương Hoài Nam đánh giá về thị trường hàng không năm 2009 và các năm tiếp theo?
Ông Lương Hoài Nam:
Năm 2009 sẽ tiếp tục là một năm khó khăn do thị trường sụt giảm, đặc biệt là nguồn khách du lịch quốc tế từ các thị trường truyền thống như Tây Âu, Bắc Mỹ, Đông Bắc Á.
Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các đường bay quốc tế và một phần cả các đường bay nội địa. Sự sụt giảm này đã và đang xảy ra và có thể ở mức độ cao hơn sau Tết Âm lịch.
Thị trường trong nước cũng đã không tăng trưởng từ quý 4/2008 trong khi khả năng cung ứng vận tải của tất cả các hãng hàng không Việt Nam tăng khá đáng kể so với năm 2008, dẫn đến nguy cơ dư thừa công suất khai thác, trong khi cơ hội tăng doanh thu là hết sức hạn chế.
Tôi nhận định tình hình này sẽ kéo dài ít nhất đến hết quý 3/2009.
Đối với các năm tiếp theo, Hiệp hội Các hãng hàng không quốc tế (IATA) và Trung tâm Tư vấn hàng không Châu Á - Thái Bình Dương nhận định năm 2010 ngành hàng không vẫn tiếp tục khó khăn.
Tuy nhiên cá nhân tôi lạc quan hơn và dự đoán các cơ hội tăng trưởng có thể xuất hiện trở lại từ cuối 2009.
Việt Vũ (vietminhvu@yahoo.com):
Thời gian qua dư luận chú ý về tình hình kinh doanh của Jetstar Pacific. Tôi thấy báo chí đề cập đến một nguyên nhân khó khăn của công ty là biến động tỷ giá, điều này cũng có ở nhiều doanh nghiệp khác, gần đây nổi bật là tại Nhiệt điện Phả Lại với khoản vay bằng ngoại tệ. Đó là khó khăn có thể dự báo trước, tại sao các doanh nghiệp lại không phòng ngừa được?
Ông Lương Hoài Nam:
Hiện tại Jetstar Pacific bay nội địa là chính, chỉ có một đường bay quốc tế bay liên danh với Bangkok Airways đi Bangkok.
Gần 100% doanh thu của chúng tôi là bằng đồng Việt Nam, trong khi 80% chi phí lại bằng USD (tiền thuê máy bay, xăng dầu, lương phi công, kỹ sư nước ngoài, vật tư phụ tùng máy bay…).
Vậy nên khi USD tăng giá so với tiền đồng như trong thời gian qua thì thiệt hại rất đáng kể.
Ở mức độ nhất định, biến động tỷ giá đồng và USD có thể dự báo được; tuy nhiên theo quy định hiện hành doanh nghiệp không được tích lũy và giữ tiền USD để sử dụng dần, khi có thì phải bán cho ngân hàng rồi khi cần thanh toán lại phải mua lại.
Nguyễn Mạnh Cường (saleshp@sse.com.vn):
Các ông nghĩ những ngành nghề, lĩnh vực nào sẽ ổn định và phát triển trong năm 2009?
Ông Lương Hoài Nam:
Tôi nghĩ những ngành nghề, mặt hàng nào đi vào cuộc sống và nhu cầu tiêu dùng thiết thực hàng ngày của mỗi gia đình vẫn có cơ hội kinh doanh tốt trong năm 2009 vì chi phí đầu vào có thể thấp hơn đáng kể. Khủng hoảng gì thì hằng ngày chúng ta vẫn phải đánh răng, gội đầu… Còn những hoạt động kinh doanh mang tính đầu cơ càng cao thì càng rủi ro.
Giáp Mạnh Quân (quankt48@gmail.com, 06:01 12/12/2008):
Chào các chú! Hiện tại cháu đang là sinh viên năm thứ 3. Năm tới cháu sẽ ra trường. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khủng hoảng và suy thoái như hiện nay, ít nhiều cũng ảnh hưởng tới thị trường lao động, thị trường tuyển dụng của Việt Nam. Vậy thì nhìn từ góc độ doanh nghiệp, với tư cách là những người trực tiếp tuyển dụng, các chú đánh giá thế nào về cơ hội việc làm của những sinh viên mới tốt nghiệp như bọn cháu?
Ông Lương Hoài Nam:
Một khi cơ hội việc làm cho các sinh viên mới ra trường không còn dồi dào như trước nữa thì ngoài kết quả học tập tốt, các em cần chủ động tìm kiếm và nộp hồ sơ thật nhiều nơi, kể cả chấp nhận làm việc tỉnh, thành phố khác và mức lương khởi điểm thấp. Tiêu chí quan trọng là khả năng tồn tại, phát triển lâu dài của doanh nghiệp mình xin việc.
Cũng không nhất thiết phải có việc hoàn toàn phù hợp với môn học, ngành học trong nhà trường. Kiến thức đại học có lẽ chỉ đóng góp tối đa 30% cho một công việc mới khi ra trường, 70% phải tự học và tích lũy qua công việc. Tự học, trau dồi, tích lũy qua công việc là hết sức quan trọng.
Phan Huy:
Nếu doanh nghiệp phân phối nước ngoài áp dụng chiến lược cạnh tranh về giá bằng cách tiết kiệm chí phí, mua hàng với khối lượng lớn để được chiết khấu % cao - giá mua hàng hóa thấp và hưởng lợi nhuận ít... thì doanh nghiệp phân phối Việt Nam nên có cách ứng phó như thế nào?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Cảm ơn câu hỏi của bạn, nhưng tôi nghĩ rằng đây không chỉ là cách các doanh nghiệp nước ngoài mới áp dụng mà các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã và đang làm như thế. Còn mức độ và hiệu quả đến đâu thì còn tùy thuộc vào cách thức của từng doanh nghiệp.
V.S.Hào:
Khó khăn của ngành may đã ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp dệt chúng tôi. Hiện hay, lượng hàng tồn kho của chúng tôi khá lớn và doanh số sụt giảm nhiều. Xin hỏi ông Trường có lời khuyên nào cho chúng tôi về sản phẩm, thị trường?
Ông Lê Tiến Trường:
Đúng là hiện nay, các doanh nghiệp ngành dệt đang rất khó khăn. Thị trường sợi trên thế giới đã suy giảm từ tháng 12/2007 và đến nay vẫn chưa có dấu hiệu hồi phục. Với kịch bản sáng sủa nhất của kinh tế thế giới trong năm 2009, cũng phải tới quý 2 hay quý 3 thị trường sợi mới có khả năng phục hồi.
Chính vì vậy, theo tôi, anh Hào nên cân nhắc đến dòng tiền của doanh nghiệp mình để quyết định giữ, hay bán tồn kho. Nếu dòng tiền quay về có khả năng đầu tư vào lĩnh vực sản phẩm thu hồi vốn nhanh hơn thì doanh nghiệp cũng nên cân nhắc.
Luan (luan_lengo@yahoo.com):
Xin hỏi, năm 2009 được dự báo sẽ là năm khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khi hai nền kinh tế lớn nhất là Mỹ và Nhật bản đã rơi vào suy thoái. Vậy với vị trí là lãnh đạo các doanh nghiệp, các anh đã chuẩn bị gì cho một “kịch bản” xấu nhất chưa?
Ông Lê Tiến Trường:
Công tác chuẩn bị trước tình hình khó khăn của thị trường kéo dài trong suốt cả năm 2008 và tới đây là năm 2009, tất cả các doanh nghiệp đều đã phải có nhiều nỗ lực đổi mới để vượt qua khó khăn.
Giải pháp của từng doanh nghiệp là bí mật về kinh doanh để vượt qua khó khăn, nhưng có thể tóm gọn trong mấy giải pháp cơ bản như sau.
- Sắp xếp lại bộ máy theo hướng tinh gọn,
- Tập trung vào nâng cao năng suất,
- Tiết kiệm triệt để, loại bỏ mọi chi phí không cần thiết,
- Cân nhắc việc tạm hoãn, giãn tiến độ các dự án đầu tư,
- Lựa chọn sản phẩm doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh nhất để phát huy.
V.V.Minh:
Việc sáp nhập ngân hàng có diễn ra mạnh trong năm 2009? Điều đó có tác động gì tới kết quả kinh doanh của khối ngân hàng trong năm 2009?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Thưa anh Minh, theo tôi, năm 2009 chưa diễn ra mạnh hoạt động sáp nhập các ngân hàng với nhau vì:
Thứ nhất, các điều kiện về thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại của Việt Nam đến nay chưa có gì ràng buộc các ngân hàng phải sáp nhập vào năm 2009. Đồng thời, tuy năm 2009 là năm khó khăn của các ngân hàng thương mại.
Nhưng khó khăn nhất đã rơi vào giữa năm 2008, nên các ngân hàng cũng đã tự nhìn nhận lại mình và sẽ có bước đi vững chắc hơn nhằm thóa gỡ khó khăn kịp thời những khó khăn năm 2009 và có kế hoạch cụ thể cho những năm tiếp theo.
Thứ hai, việc sáp nhập doanh nghiệp là rất bình thường trong nền kinh tế thị trường nhưng năm 2009 sẽ xảy ra không nhiều trong lĩnh vực ngân hàng, vì nếu có, thì chủ yếu là tự nguyện bản thân các ngân hàng có muốn sáp nhập hay không chứ chắc chắn là chưa có hiện tượng buộc phải sáp nhập.
Liên quan đến tác động từ việc sáp nhập ngân hàng có ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khối này năm 2009 hay không, tôi cho rằng việc sáp nhập (nếu có) chỉ thực hiện theo phương châm "liên kết phát triển" thì bản thân các ngân hàng sẽ mạnh lên, vì vậy kết quả hoạt động của khối ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ có tiến triển tốt hơn.
Võ Văn Dư:
Xin hỏi doanh nghiệp có thể cam kết bảo đảm giá hàng nông sản cho nông dân trong năm 2009 không? Có giải pháp nào để phòng ngừa rủi ro biến động giá không? Xin cám ơn.
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Chào bạn. Trong kinh tế thị trường giá cả luôn có sự biến động, nên doanh nghiệp chỉ có thể cam kết ngắn hạn. Và chính cam kết này cũng phần nào phòng ngừa rủi ro biến động, kể cả cho nông dân và cho các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh.
Cũng cần kiến nghị với người sản xuất rằng, cần có sự cam kết và thực hiện nghiêm túc với doanh nghiệp, kể cả khi có biến động về giá, để đảm bảo sự hợp tác lâu dài, giữ uy tín không chỉ cho doanh nghiệp mà còn duy trì giữ chữ tín với cả khách hàng nước ngoài.
Văn Thanh Nhàn:
Có nhiều ý kiến cho rằng, dù thị trường bất động sản trong thời gian qua khá trầm lắng, giá nhà đã liên tục giảm nhưng các chủ đầu tư vẫn có “siêu lợi nhuận” vì giá bán vẫn cao hơn nhiều so với chi phí xây nhà, thưa ông Phương?
Ông Nguyễn Thành Phương:
Thưa bạn, tôi chưa đồng tình lắm với nhận định trên. Quan điểm của cá nhân tôi là, kinh doanh bất động sản phải có đội ngũ xây dựng chuyên nghiệp và phải có những công nghệ xây dựng mới để giảm chi phí đầu tư cũng như thời gian xây dựng.
Ngoài ra, thiết kế và công năng sử dụng của dự án phải được khách hàng chấp nhận và tin tưởng. Điều này có nghĩa rằng, không phải doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh bất động sản nào cũng có thể thu được lợi nhuận.
Để thực hiện được điều này thì ngoài tính chuyên nghiệp, áp dụng công nghệ mới trong xây dựng, tiết kiệm thời gian, vật tư, vật liệu còn phải đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng…
HuynhTrungNhan (nhantrungsg@yahoo.com):
Tôi là một nhà đầu tư, thông tin dự báo đối với tôi và có lẽ là với nhiều người khác là rất quan trọng, vì giúp chúng tôi chủ động hơn trong hoạt động. Tuy nhiên, với những khó khăn của nhiều doanh nghiệp vừa qua cho thấy chúng ta vẫn còn rất thụ động trước những biến đổi của nền kinh tế trong cũng như ngoài nước. Vậy tôi xin phép hỏi rằng công tác dự báo tại các doanh nghiệp được coi trọng như thế nào, tính chính xác của nó thường ở mức nào? Xin cảm ơn!
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có tính hội nhập cao thì việc thu thập, xử lý thông tin để đưa ra dự báo là hết sức quan trọng.
Hiện nay lượng thông tin có thể thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng các số liệu thống kê từ mỗi nguồn lại có sự khác nhau. Cũng vì thế mà việc dự báo gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy tình trạng thụ động trong dự báo còn khá phổ biến.
Hapro rất coi trọng công tác dự báo. Chúng tôi đã hình thành một bộ phận chuyên thu thập, xử lý thông tin, đưa ra dự báo để tham mưu cho lãnh đạo. Tất nhiên đã là dự báo thì không thể chính xác tuyệt đối. Nhưng thực sự công tác dự báo đã giúp ích nhiều cho việc hoạch định chiến lược kinh doanh và định hướng cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Chi Mai (nciec@yahoo.com):
Kính chào các diễn giả. Theo tôi biết, khi kinh tế suy thoái các quốc gia có xu hướng gia tăng bảo hộ thương mại. Trên thực tế ở Việt Nam thời gian qua cũng có khá nhiều ý kiến quy kết những khó khăn hiện nay cho mở cửa, hội nhập. Theo các ông, trong thời gian này Việt Nam có nên tiếp tục thực hiện chính sách cải cách mở cửa, theo đuổi các vòng đàm phán tự do hoá thương mại với các đối tác?
Ông Lê Tiến Trường:
Tôi nghĩ đây là một vấn đề lớn, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của cả nước. Cho nên, nếu chỉ đứng trên giác độ lợi ích của một ngành thì có thể không đánh giá hết được những ảnh hưởng trong việc thực hiện chính sách bảo hộ, cũng như hệ lụy có thể ảnh hướng đến những ngành khác.
Do vậy, để cân nhắc quyết định chính sách bảo hộ, nếu có, cần có sự chủ trì của cơ quan quản lý Nhà nước với sự tham gia của đại diện các hiệp hội, các tập đoàn kinh tế liên quan, nhằm đánh giá toàn diện ảnh hưởng của một chính sách mới, đảm bảo mục tiêu phát triển chung của cả nước, cũng như vai trò, vị trí, quan hệ của Việt Nam với các nền kinh tế khác trong tương lai.
Bankervn:
Liệu có những cuộc đổi ngôi trên thị trường ngân hàng và chứng khoán trong năm 2009 không, khi những tổ chức mới ra đời ở hai lĩnh vực này “lành mạnh” hơn những thành viên đi trước?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
"Đổi ngôi" là hiện tượng bình thường trong hoạt động của cơ chế thị trường, vì vậy, mọi thứ đều có thể xảy ra!
Đặc biệt có trải qua khó khăn thì mới biết được "sức khỏe" thực sự của các doanh nghiệp nói chung - của ngân hàng, công ty chứng khoán nói riêng phụ thuộc vào sự hoạch định chiến lược, bước đi cụ thể, việc dự báo và phòng ngừa rủi ro.
Riêng hoạt động ngân hàng và chứng khoán, theo tôi có 4 yếu tố quyết định trong cạnh tranh, đó là:
1. Quy mô tổng tài sản
2. Nhân lực
3. Hiện đại hóa công nghệ
4. Quản trị điều hành theo chuẩn mực quốc tế.
Trong bốn yếu tố trên thì yếu tố nhân lực là yếu tố quan trọng nhất. Bốn yếu tố trên so với các ngân hàng nước ngoài thì ngân hàng Việt Nam đang ở thế yếu. Sự tồn tại phát triển hoặc "đổi ngôi" chắc chắn sẽ diễn ra và đến với ngân hàng nào có chiến lược tốt và bước đi đúng đắn.
Thiện Kế:
Tôi nghĩ tâm lý của chúng ta hiện nay rất bi quan. Tuy nhiên tình hình chưa hẳn đã xấu đến như vậy. Ví dụ như chúng ta nhận định kinh tế thế giới suy thoái, năm 2008, ngành dệt may sẽ rất khó khăn. Tuy nhiên kết quả là 2008 chúng ta vẫn đạt mức tăng trưởng xuất khẩu dệt may trên 20%. Xin ông Trường cho biết công tác dự báo của chúng ta có thể nói là kém được không?
Ông Lê Tiến Trường:
Thực tế, mức tăng trưởng trên 20% của ngành dệt may là mức thấp so với nhiều năm trở lại đây. Cho nên, không thể gọi con số đó là rất khả quan.
Theo dự báo ban đầu, khi chưa có các biểu hiện của suy giảm kinh tế, dệt may Việt Nam có khả năng xuất khẩu 9,5 -10 tỷ USD trong năm 2008. Nhưng tới tháng 8/2008, chúng tôi đã xác định là không thể đạt 9,5 tỷ USD mà chỉ có khả năng đạt khoảng 9,2 tỷ USD.
Tiếp đó, đến tháng 10/2008, chúng tôi đã điều chỉnh dự báo kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam cả năm 2008 chỉ còn khoảng 9-9,1 tỷ USD. Thực tế đến nay, tôi nghĩ sẽ đạt con số này.
Như vậy, trong lĩnh vực dệt may, chúng tôi đánh giá công tác dự báo là khá bám sát với thực tế thị trường.
Thuvanmart:
Hapro đã tự tin để đón cuộc hội nhập chính thức của thị trường bán lẻ từ năm 2009 chưa, thưa ông Cảnh? Đâu là những điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Cảm ơn sự quan tâm của bạn với doanh nghiệp chúng tôi. Hapro luôn luôn tự tin đón quá trình hội nhập chính thức của thị trường bán lẻ.
Trong lĩnh vực bán lẻ, các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có Hapro đều mới nhập cuộc nên còn rất nhiều điểm yếu. Cụ thể như kinh nghiệm quản lý điều hành hệ thống bán lẻ, tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực, xây dựng hệ thống các nhà cung cấp ổn định, hệ thống logestic...
Để khắc phục tình trạng này không thể đốt cháy giai đoạn mà cần phải có lộ trình và đầu tư từng bước. Mặt khác cũng tranh thủ quá trình hội nhập để học hỏi kinh nghiệm và tự hoàn thiện.
Thuy:
Xin hỏi ông Nguyễn Thành Phương. Theo tỷ lệ lợi nhuận năm 2009 tăng khoảng 20% so với năm 2008, trong khi giá cổ phiếu cua Vinaconex đã giảm giá rất nhiều (15.300 đồng) sau khi cộng cả giá hỗ trợ khi phát hành thêm bán cho cổ đông chiến lược (20.000 đồng). Vậy đến thời điểm nộp tiền mua cổ phiếu thưởng của Vinaconex, nếu giá vẫn thấp thế này thì lãnh đạo công ty sẽ khắc phục tình trạng bán cổ phiếu thưởng cao hơn giá niêm yết trên sàn như thế nào để bảo vệ cổ đông? Nếu không thì có thể bán lại cổ phiếu thưởng lại cho công ty để công ty mua làm cổ phiếu quỹ được không? Nếu mua thì giá mua là bao nhiêu?
Ông Nguyễn Thành Phương:
Chào bạn, trước hết tôi xin khẳng định, mức giá 20.000 đồng/cổ phiếu sắp phát hành đã được thông qua tại đại hội đồng cổ đông và đã được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận.
Thời điểm này, giá cổ phiếu của Vinaconex trên sàn tuy chỉ còn 15.300 đồng/cổ phiếu, nhưng hạn cuối các cổ đông phải nộp tiền là 6/1/2009. Trường hợp tới thời điểm đó, giá cổ phiếu trên sàn vẫn không hấp dẫn nhà đầu tư thì các cổ đông vẫn có quyền từ chối quyền mua.
Trong trường hợp, cổ phiếu phát hành thêm bán không hết Vinaconex sẽ mời các nhà đầu tư chiến lược đến thương thảo mua lại với giá không thấp hơn mức giá này. Đại hội đồng cổ đông đã ủy quyền cho Hội đồng Quản trị xử lý và báo cáo lại tại đại hội đồng cổ đông phiên gần nhất.
Tuấn Giao:
Xin hỏi năm 2009, LienVietBank đặt mục tiêu lợi nhuận bao nhiêu? Cách nào để đạt được trong bối cảnh khó khăn dự báo sắp tới?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Do "sinh sau đẻ muộn" nên LienVietBank đã học được những bài học thành công và chưa thành công của các ngân hàng bạn để xác định con đường đi riêng của mình để có hiệu quả. Bước đầu, đã có những thành công nhất định.
Hiện nay, tổng tài sản của LienVietBank qua 7 tháng hoạt động đã lên tới gần 8.000 tỷ đồng, lợi nhuận gần 500 tỷ đồng, trả cổ tức cho cổ đông 7 tháng năm 2008 là 9%. Mục tiêu lợi nhuận của LienVietBank năm 2009 là cao hơn năm 2008.
"Vạn sự khởi đầu nan", sinh ra đúng thời điểm cực kỳ khó khăn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nhưng chúng tôi vẫn đạt được kết quả trên, thì năm 2009, chắc chắn chúng tôi sẽ hoạt động tốt hơn năm 2008, vì chúng tôi tôn trọng tôn chỉ "Đổi mới - An toàn - Hiệu quả" và liên kết phát triển.
Hanh Nguyen (gttron@yahoo.com.vn):
Thưa ông Lương Hoài Nam, theo ông ngành du lịch Việt Nam sẽ phải đối mặt với những khó khăn chính nào (nếu có) trong năm 2009? Như ông đã trả lời ở trên, việc thay đổi tên thương hiệu, lựa chọn mua lại quyền sử dụng thương hiệu Jetstar là một quyết định nhằm tiết kiệm chi phí và rút ngắn thời gian quảng bá thương hiệu tại nước ngoài, vậy xin ông cho biết đứng trước những thách thức và khó khăn năm 2009, Jetstar có cắt giảm mạnh ngân sách PR, quảng cáo và nhất là giảm các hoạt động khuyến mại áp dụng cho khách hàng trong thời gian vừa qua?
Ông Lương Hoài Nam:
Thách thức chính đối với ngành du lịch, hàng không trong năm 2009 là nguy cơ giảm sút lượng hành khách nội địa và quốc tế khi nền kinh tế gặp khó khăn và thu nhập thực của người dân giảm (cả trong và ngoài nước) thì việc đi máy bay, du lịch là một trong những nội dung cắt giảm đầu tiên.
Vì vậy, các hãng hàng không trong đó có Jetstar Pacific cần điều chỉnh quy mô khai thác cho phù hợp để cắt giảm chi phí. Đồng thời tìm mọi cơ hội kích cầu, tăng doanh thu, kể cả từ việc kinh doanh các dịch vụ giá trị gia tăng ngoài giá vé máy bay.
Về chi phí thương hiệu, đây là một phần của chi phí bán, trong năm 2008 chúng tôi chi 5% cho tất cả các hoạt động bán. Tuy nhiên, sang năm 2009 chi phí bán dự kiến sẽ chỉ chiếm 3%, trong đó chi phí cho PR, quảng cáo không đáng kể.
Nguyễn Hữu Tuyển (vietnamtuyen@gmail.com):
Chào anh Lương Hoài Nam! Chúc sức kkhỏe của anh và Jetstar! Theo dõi báo chí thấy nói rằng Jetstar đang gặp nhiều khó khăn từ cơ chế và từ chính sách khuyến mãi của hãng. Anh có thể cho ý kiến về quan điểm này không? Nếu Chính phủ không chấp thuận cho phép Qantas tăng cổ phần và khai thác trực tiếp đường bay nội địa đối với Jestar, hãng sẽ phải cải tổ theo xu hướng nào? Dư luận cho rằng Qantas đang muốn thôn tính Jestar Pacific Airlines, ý kiến của anh về việc này như thế nào?
Ông Lương Hoài Nam:
Các khó khăn Jetstar Pacific gặp phải trong năm 2008 chủ yếu là do biến động giá xăng dầu trong điều kiện khống chế trần giá vé máy bay nội địa chứ không phải là do chính sách khuyến mãi.
Các cổ đông của Công ty đã có giải pháp cơ cấu lại vốn để Công ty tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Jetstar Pacific là doanh nghiệp hàng không Việt Nam, mặc dù có một tỷ lệ cổ phần của Qantas, vì vậy không có chuyện ai đó không cho công ty bay nội địa, quốc tế.
Theo luật hàng không và các quy định hiện hành, Qantas chỉ được phép chiếm tối đa 30% cổ phần và tham gia điều hành tối đa 1/3 các vị trí quản lý trong công ty, vì vậy nguy cơ thôn tính như một số người đề cập hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và thực tiễn.
Vuong Lan Hung:
Tôi cho rằng trong lúc tình hình khó khăn như thế này, Chính phủ phải có chỉ đạo cụ thể hơn với các thương vụ để giúp doanh nghiệp tiêu thụ tốt sản phẩm, tìm thêm đối tác, thị trường mới. Ví dụ như phải áp chỉ tiêu kim ngạch cho các thương vụ và có thưởng, phạt cụ thể hơn. Ý kiến của ông Cảnh thế nào?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Kiến nghị của bạn hiện nay đã và đang được thực hiện. Các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đã được giao chỉ tiêu tăng trưởng kim ngạch cụ thể và để đạt được yêu cầu đó thì không thể không hỗ trợ các doanh nghiệp về các thông tin, tìm kiếm thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu.
Không chỉ có các cơ quan thương vụ mà với các cơ quan đại diện ngoại giao thì nhiệm vụ phát triển kinh tế cũng là nhiệm vụ hàng đầu.
Tam Pham (rong1471982@yahoo.com):
Trước đây, doanh nghiệp ta đã rất vất vả để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam qua làn sóng WTO. Vậy, các doanh nghiệp Việt Nam đã có những chính sách cụ thể và triệt để như thế nào để thoát khỏi 2 bức tường: một bên là làn sóng WTO và một bên là tình hình suy thoái kinh tế đang diễn ra hầu hết ở các quốc gia trên thế giới?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Trong hội nhập luôn có cả thời cơ và thách thức.
Việc chúng ta vào WTO được hưởng những cơ hội trong kinh doanh thì cũng buộc phải chấp nhận những rủi ro thách thức, ảnh hưởng của quá trình hội nhập. Tận dụng cơ hội và tránh những rủi ro như thế nào thì phụ thuộc vào giải pháp của từng doanh nghiệp, trong đó có sự điều tiết kịp thời của Nhà nước.
Thực tế năm 2008 vừa qua đã chứng minh việc các doanh nghiệp tận dụng cơ hội và khắc phục những ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu.
Phạm Văn Mạnh (vp.manh@gmail.com):
Năm 2009 lợi nhuận của Vinaconex sẽ tăng khoảng 20% so với năm 2008. Một con số ấn tượng, không mà là rất ấn tượng (tôi hy vọng là lợi nhuận sau thuế). Xin hỏi nếu không có gói 1 tỷ USD nhằm kích cầu (ưu tiên cho đầu tư xây dựng cơ bản) của Chính phủ thì liệu Vinaconex có đặt chỉ tiêu lợi nhuận mức 20% như trên hay không? Giả sử Vinaconex gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh thì những mục chi phí nào sẽ được "ưu tiên" cắt giảm? Chúc ông và Vinaconex thành công hơn nữa!
Ông Nguyễn Thành Phương:
Mức chỉ tiêu lợi nhuận nêu trên (trước thuế) được Vinaconex đặt ra không dựa nhiều vào gói kích cầu 1 tỷ USD của Chính phủ, mà chủ yếu dựa trên những dự án chúng tôi đã nhận được và các dự án kinh doanh nằm trong tầm kiểm soát của Vinaconex.
Trong trường hợp Vinaconex gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, việc đầu tiên chúng tôi làm là giãn những dự án đầu tư chưa mang lại hiệu quả trong ngắn hạn. Tiếp đến, Vinaconex sẽ thoái vốn ở một số dự án và các công ty thành viên không mang lại hiệu quả mong muốn.
Bùi Văn Tiến (buivantien1102@yahoo.com):
Xin hỏi ông Nguyễn Đức Hưởng, Ngân hàng Liên Việt hiện đang hoạt động như thế nào? Có gặp khó khăn gì không? Nghe nói ông lãnh lương cao nhất ở vị trí tổng giám đốc ngân hàng tại Việt Nam (17.000 USD/tháng) có phải không?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Ngân hàng Liên Việt đang hoạt động rất có hiệu quả vì chúng tôi đã hoạch định bước đi hợp lý trong điều kiện ngân hàng thương mại Việt Nam gặp khó khăn.
Về thu nhập, tôi không nghĩ rằng tôi lãnh lương cao nhất Việt Nam ở vị trí tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng số tiền lương đấy gần đúng rồi đấy!
Thu Phương:
Xin hỏi ông Nguyễn Đức Hưởng: Việt Nam đang bị đánh giá là có quá nhiều ngân hàng, vậy chiến lược phát triển của một ngân hàng mới như Liên Việt sẽ thế nào trong giai đoạn khó khăn này?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Đúng là ở Việt Nam đang có rất nhiều ngân hàng, nếu so sánh với các nước láng giềng thì Trung Quốc có hơn 1 tỷ dân chỉ có 13 ngân hàng cổ phần, Singapore chỉ có 3 ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng ở Việt Nam có tới gần 80 ngân hàng thương mại. Cho nên hoạt động cạnh tranh sẽ rất gay gắt và cực kỳ khó khăn.
Đối với LienVietBank, chúng tôi đã ý thức sâu sắc được điều đó nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng thị trường kinh doanh tiền tệ tín dụng ở Việt Nam vẫn rộng mở, hoạt động ngân hàng nếu biết đổi mới và tạo ra những dịch vụ phong phú, hoạt động khác biệt thì ngân hàng thương mại vẫn tận dụng được cơ hội phát triển tốt. Bước đầu LienVietBank đã thực hiện được điều đó.
Minh Đức:
Xin anh Hưởng cho biết tình hình thưởng tết trong ngành tài chính năm nay thế nào và LienVietBank nói riêng? Trân trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Tôi nghĩ rằng các doanh nghiệp nói chung và ngành tài chính nói riêng năm nay sẽ thưởng không nhiều vì các daonh nghiệp đang thực hiện chính sách "thắt lưng buộc bụng" vì nền kinh tế trang trải qua khó khăn nhất định.
Riêng LienVietBank trong kinh doanh năm nay chúng tôi cũng có phần may mắn nên cổ tức chia cho cổ đông 7 tháng năm 2008 đã đạt 9%/ vốn điều lệ 3.300 tỷ. Riêng thưởng cho cán bộ nhân viên chúng tôi thực hiện phương châm "sống bằng lương, giàu bằng thưởng", vì vậy, chắc chắn những cán bộ nhân viên LienVietBank thuộc diện lao động giỏi sẽ được thưởng xứng đáng.
Giáo sư Đào Nguyên Cát, Tổng biên tập Thời báo Kinh tế Việt Nam:
Kính thưa các bạn độc giả thân mến!
Nền kinh tế toàn cầu đang bước vào giai đoạn khó khăn nhất và thậm chí, theo đánh giá của các nhà phân tích kinh tế trên thế giới, mức độ ảnh hưởng của chúng còn tồi tệ hơn cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933.
Trong khi cả thế giới nín thở chờ đợi sự phục hồi thì cuộc khủng hoảng này đang tác động ngày một rõ rệt đến Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng, làm bùng phát lạm phát, làm mất cân bằng thị trường ngoại hối, đẩy hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn do chi phí vốn gia tăng khi Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ.
Mặc dù Chính phủ đã kiểm soát tốt lạm phát trong hai tháng qua, nhưng nền kinh tế cũng đang bộc lộ những dấu hiệu suy giảm. Nhiều doanh nghiệp phải hoạt động cầm chừng, trong bối cảnh nền kinh tế có thể còn tiếp tục gặp nhiều khó khăn.
Nhằm có một cách nhìn tổng thể đối với diễn biến sắp tới của nền kinh tế, lường trước bất ổn để tìm cách vượt qua khó khăn, chúng tôi đã quyết định tổ chức buổi giao lưu trực tuyến “Kinh tế 2009 nhìn từ doanh nghiệp” trên VnEconomy, với sự tham gia của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp lớn đến từ nhiều ngành và lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế.
Chúng tôi trân trọng cám ơn các ông Nguyễn Thành Phương, ông Trần Mạnh Cảnh, ông Lê Tiến Trường, ông Lương Hoài Nam và ông Nguyễn Đức Hưởng.
Trân trọng cám ơn các quý độc giả đã nhiệt tình theo dõi và gửi câu hỏi tham gia giao lưu.
Vì thời gian có hạn, chúng tôi xin tạm dừng buổi giao lưu tại đây. Với những câu hỏi của các bạn mà các vị khách mời chưa kịp trả lời, chúng tôi xin hứa sẽ trở lại vấn đề này vào một thời gian gần nhất.
Những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới không còn ở mức độ dự báo, đề phòng, mà đã và đang thể hiện cụ thể trong hoạt động của nhiều doanh nghiệp.
Trong nước, hoạt động xuất khẩu, sản xuất kinh doanh ở nhiều ngành hàng đã có dấu hiệu sụt giảm, đình trệ; các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, đặc biệt là nguồn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài, đã chậm lại…
Năm 2009 cũng là thời điểm những cam kết quan trọng trong lộ trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có hiệu lực; bên cạnh việc giảm dần những rào cản thuế quan là bước mở cửa hội nhập sâu hơn ở các lĩnh vực như thị trường bán lẻ, ngân hàng - tài chính… Đi cùng với quá trình này là những cơ hội và thử thách mới.
Lường trước những khó khăn, đánh giá những cơ hội để hoạch định chiến lược kinh doanh, ứng xử và nắm bắt; đây là những nội dung chính của cuộc giao lưu trực tuyến trên VnEconomy diễn ra vào lúc 14 giờ chiều nay, với chủ đề “Kinh tế 2009 nhìn từ doanh nghiệp”.
Diễn giả của buổi giao lưu là lãnh đạo các tổng công ty, tập đoàn kinh tế đang hoạt động trong các lĩnh vực trọng điểm như xuất khẩu, phân phối, dịch vụ, bất động sản, ngân hàng - tài chính:
- Ông Nguyễn Thành Phương, Tổng giám đốc Tổng công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam (Vinaconex)
- Ông Trần Mạnh Cảnh, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro)
- Ông Lê Tiến Trường, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex)
- Ông Lương Hoài Nam, Tổng giám đốc Hãng hàng không Jetstar Pacific
- Ông Nguyễn Đức Hưởng, Tổng giám đốc Ngân hàng Liên Việt (LienVietBank)
Ông Nguyễn Thành Phương | Ông Trần Mạnh Cảnh | Ông Lê Tiến Trường | Ông Lương Hoài Nam | Ông Nguyễn Đức Hưởng |
Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu những nội dung chính của cuộc giao lưu trực tuyến:
Hữu Tuấn (ntuan1802@yahoo.com):
Xin hỏi đại diện các doanh nghiệp, trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới, nhiều nhận định của các chuyên gia, bộ ngành trong nước cho rằng Việt Nam không bị ảnh hưởng trực tiếp. Nhưng thực tế là nhiều doanh nghiệp hiện nay đang gặp khó khăn trực tiếp. Vậy thì công tác dự báo của chúng ta có chủ quan không? Với các doanh nghiệp thì ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đó sẽ như thế nào?
Ông Lương Hoài Nam:
Mọi dự báo cũng chỉ là dự báo, có thể đúng mà cũng có thể sai, đặc biệt trong một nền kinh tế, thương mại toàn cầu đan chéo, ảnh hưởng lẫn nhau, tình hình của quốc gia này ảnh hưởng đến quốc gia nọ, ngành này ảnh hưởng đến ngành khách, hàng hóa này ảnh hưởng đến hàng hóa khác.
Trong bối cảnh khủng hoảng, điều quan trọng không phải là dự báo mà mà khả năng điều chỉnh và hành động. Cuộc khủng hoảng trên phạm vi toàn cầu và ngay ở Việt Nam mà thực tế, đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến mỗi một doanh nghiệp, không doanh nghiệp nào có thể đứng ngoài được.
Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải tự đánh giá và hành động. Mỗi quyết định điều chỉnh cũng có thể đúng, có thể sai, nhưng nếu không điều chỉnh gì thì đó sẽ là sai lầm lớn nhất và có thể dẫn đến phá sản.
Theo tôi, hướng điều chỉnh quan trọng nhất của các doanh nghiệp trong thời gian từ nay đến giữa năm 2009 là cắt giảm chi phí, quy mô sản xuất để đối phó với sự sụt giảm doanh thu trước khi các biện pháp kích thích tiêu dùng ở trong nước và ở các nước khác bắt đầu phát huy tác dụng.
Đỗ Văn Châu (d.v.chau@gmail.com):
Tôi thấy rằng chúng ta kỳ vọng quá nhiều vào giá trị mà quá trình gia nhập WTO mang lại. Sau 2 năm gia nhập, các đại biểu đánh giá thế nào giữa thực tế và kỳ vọng? Trân trọng cảm ơn.
Ông Lương Hoài Nam:
Xét về tổng thể thì việc hội nhập WTO đã và đang mang lại nhiều giá trị tích cực cho Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam. Tất nhiên, không có “cuộc chơi” nào chỉ có được mà không có mất.
Những nhà đàm phán WTO đã nói điều này ngay từ đầu. Chúng ta không nên vì một số ảnh hưởng tiêu cực (nói đúng hơn là một số khó khăn, nhiều khi do chính sự thiếu chuẩn bị của bản thân doanh nghiệp) từ việc hội nhập WTO để phủ nhận cái lợi tổng thể.
Với riêng ngành dệt may Việt Nam, việc gia nhập WTO thực sự là một cơ hội lớn, mang lại tốc độ tăng trưởng cao trong năm 2007 và 2008. Lý do là sự gia nhập này đã mở ra các thị trường trước đây bị áp hạn ngạch như Mỹ và châu Âu.
Chính vì thế mà năm 2007, ngành dệt may tăng trưởng 34%. Năm 2008 nhiều khó khăn, ngành vẫn tăng trưởng 21%.
Đối với các ngành nghề kinh doanh khác, vào WTO vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức, vì thị trường mở ra, nhưng thách thức cạnh tranh cũng tăng cao. Bởi thế, nếu không cải thiện được năng lực cạnh tranh thì vẫn không thể tận dụng được cơ hội.
Do đó, điều quan trọng là WTO đang mang lại một sân chơi để doanh nghiệp có điều kiện thể hiện năng lực của mình và chỉ những tổ chức có lợi thế cạnh tranh thực sự mới thu được thắng lợi.
Tôi không cho rằng ta đã kỳ vọng quá nhiều vào WTO, tất cả các doanh nhân đều hiểu rằng, đó chỉ là một cơ hội. Những tổ chức có đối sách chính xác thì chắc chắn đã thu được những bước tiến lớn trong hai năm qua.
Những tổ chức chưa đạt được mong muốn của mình cần xem lại chiến lược cạnh tranh để tận dụng tốt cơ hội của một thị trường mở như WTO.
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Chúng ta không thể không kỳ vọng khi gia nhập WTO, nhưng hai năm chưa phải là thời gian để có thể thấy tác động đột biến ngay.
Phải có cả một quá trình mới có thể thấy rõ tác động. Nhưng điều có thể thấy rõ là vị thế của nước ta đã được nâng nên, qua đó các doanh nghiệp Việt Nam cũng được nhìn nhận và đánh giá cao hơn, bình đẳng hơn với các đối tác nước ngoài.
Cá nhân tôi vẫn đặt nhiều kỳ vọng khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
Hồng Vinh:
Chúng ta đang đối diện với nhiều khó khăn, nói nhiều về khó khăn. Vậy xin lãnh đạo các doanh nghiệp cho biết có những cơ sở nào để lạc quan về kinh tế năm 2009 không?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Quốc hội đã dự báo về suy thoái kinh tế thế giới ảnh hưởng đến nước ta nên đã điều chỉnh chỉ tiêu GDP cho phù hợp.
Chính phủ đã có bước đi phù hợp, giải pháp kịp thời, đặc biệt là về tài chính đã điều hành linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam là nông sản, đây là mặt hàng thiết yếu, nên dù kinh tế thế giới có suy thoái thì kim ngạch xuất khẩu sẽ không ảnh hưởng nhiều, nên chúng ta vẫn có thể có niềm tin vào xuất khẩu năm 2009.
Tôi nhận thấy các doanh nghiệp Việt Nam càng vào lúc khó khăn thì càng có nhiều sáng tạo, có giải pháp mới để đứng vững và phát triển.
Võ Khắc Đức (khac_duc18d2@yahoo.com):
Xin chào các diễn giả. Là doanh nghiệp, đương đầu trực tiếp với cuộc khủng hoảng hiện này, theo nhìn nhận của các quý vị thì các doanh nghiệp nước ta có khó khăn lắm không, ở mức độ thế nào? Khoảng sau bao lâu kinh tế sẽ phục hồi?
Ông Lê Tiến Trường:
Trên bình diện các đơn vị dệt may, đặc thù của chúng tôi là làm hàng xuất khẩu. 90% doanh thu là từ xuất khẩu, với các thị trường chính là Mỹ, Nhật, châu Âu, trong đó 50% kim ngạch là từ thị trường Mỹ. Khi các nước này có suy thoái kinh tế, tất yếu thị trường xuất khẩu của dệt may Việt Nam sẽ bị thu hẹp về quy mô.
Do đó, tốc độ tăng trưởng của ngành dệt may không thể được duy trì ở mức trên 20% như trong các năm trước. Trong quý 4/2008 này, giá trị đơn đặt hàng suy giảm, trong đó, giá trị đơn đặt hàng từ Mỹ đã giảm khoảng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Do đó, chắc chắn, năm 2009 đối với ngành dệt may sẽ là một năm khó khăn.
Các doanh nghiệp sẽ phải tìm ra giải pháp của riêng mình. Trước hết, cần tập trung vào lĩnh vực có ưu thế cạnh tranh, đó là các sản phẩm chất lượng từ khá tới cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, chúng tôi cùng cần có những sản phẩm có ưu thế về giá. Đặc biệt, cần tiết kiệm chi phí để đảm bảo tỷ suất lợi nhuận, khi mà cạnh tranh về giá trong năm tới sẽ rất gay gắt.
Mặt khác, cùng cần tiếp tục mở rộng thị trường không truyền thống như các nước Trung Đông, các nước ít bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng lần này. Cùng với đó, cần phát triển thị trường nội địa thông qua một hệ thống phân phối rộng khắp. Theo ước tính, giá trị thị trường dệt may nội địa cũng đạt tới mức 3 tỷ USD/năm.
Theo tôi, với các doanh nghiệp khác, khó khăn trong năm tới cũng rất nhiều. Các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ có cùng khó khăn như ngành dệt may. Với các doanh nghiệp phục vụ thị trường nội địa, tổng cầu trong nước cũng giảm xuống do thu nhập suy giảm.
Bởi vậy, muốn kinh doanh được, giá cả nói chung của mọi mặt hàng cần phải giảm hơn trong năm nay. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp cần tiết giảm chi phí, hạ giá thành, tăng năng suất lao động... Nếu không làm được những việc này, tình hình năm tới đối với các doanh nghiệp sẽ rất khó khăn.
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Doanh nghiệp nhìn chung là khó khăn, có doanh chịu tác động trực tiếp, có doanh nghiệp gián tiếp nên mức độ khó khăn sẽ khác nhau.
Cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay mang tính toàn cầu, nước ta và đặc biệt là các doanh nghiệp đã hội nhập kinh tế khá sâu rộng nên tác động của thế giới sẽ ảnh hưởng nhiều hơn so với các đợt suy thoái kinh tế trước đây.
Vậy nên việc phục hồi cũng sẽ tùy vào mức độ ảnh hưởng với tiến độ khác nhau, phụ thuộc vào đặc thù và các giải pháp của mỗi doanh nghiệp.
Với Hapro thì ảnh hưởng trực tiếp của suy thoái kinh tế là mảng kinh doanh xuất nhập khẩu nên kim ngạch giảm. Chúng tôi đã tìm các thị trường mới thay thế như thị trường Nga (ít biến động trong cuộc khủng hoảng) và các thị trường ngách khác.
Ông Nguyễn Thành Phương:
Chắc chắn các doanh nghiệp trong nước ta sẽ gặp phải những khó khăn trong tình hình kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh và khả năng tháo gỡ khó khăn của từng doanh nghiệp nên mức độ sẽ khác nhau.
Riêng trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, hiện nay đang chững lại cả về xuất khẩu và tiêu thụ trong nước như gạch, sắt thép, xi măng.
Nhưng đối với các nhà thầu xây dựng lớn lại không bị ảnh hưởng nhiều do giá vật liệu xây dựng đang xuống. Công trình xây dựng gần đây lại được mở ra nhiều. Mới đây, doanh nghiệp lại được tiếp cận với nguồn vốn vay với lãi suất hợp lý hơn.
Theo dự báo của chúng tôi, phải tới quý 3 hoặc quý 4 năm 2009, nền kinh tế nước ta mới có thể trở lại đà phát triển bền vững.
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Tuy nền kinh tế thị trường của Việt Nam chưa phải là bình thông nhau với thị trường thế giới, ảnh hưởng trực tiếp dù nhỏ, nhưng ngược lại sẽ ảnh hưởng gián tiếp và tâm lý lại rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng.
Nên khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn bởi hai nguyên nhân chính:
Thứ nhất, việc hoạch định chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp đôi khi chỉ căn cứ vào thị trường với dự báo chưa được chuẩn xác mà chưa căn cứ vào thực lực của bản thân mình nên có nhiều doanh nghiệp đầu tư theo "phong trào". Trong khi khả năng vốn chủ sở hữu thấp, nguồn vốn đầu tư dựa vào vốn vay ngân hàng là chủ yếu, đến khi ngân hàng tạm dừng cho vay thì các doanh nghiệp đều bị động và không "tự cứu" mình được.
Thứ hai, năm 2008 là năm bước đầu của sự hội quốc tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng các doanh nghiệp Việt Nam chưa có được sự tư vấn đầy đủ về thị trường thế giới nên có những bị động trong xuất nhập khẩu - không khác gì bị động khi thiếu vốn vay ngân hàng.
Về dự báo thời điểm kinh tế phục hồi, tôi cho rằng rất khó đoán, nhưng hy vọng kinh tế sẽ sáng lên sau tháng 9/2009. Khi các ngành chức năng đã thực hiện có hiệu quả gói giải pháp của Chính phủ về ngăn ngừa suy giảm kinh tế và kinh tế thế giới thời điểm ấy cũng bắt đầu "ấm lên".
Lê Hoài Sơn (sonlh2704@gmail.comj):
Kính chào các diễn giả! Trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng đã có những phân tích dự báo cho rằng năm 2009 là một năm kinh tế thế giới và Việt Nam nói riêng sẽ gặp nhiều khó khăn, và tình hình thậm chí còn xấu hơn nửa cuối năm 2008. Xin các ông cho biết đâu là những lĩnh vực đầu tư mà doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên tránh đẩy mạnh trong kế hoạch kinh doanh 2009? Trân trọng cảm ơn.
Ông Lê Tiến Trường:
Cá nhân tôi cho rằng, trong kinh doanh, dù trong điều kiện rất thuận lợi hay rất khó khăn của thị trường, vẫn luôn tồn tại một xác xuất thành công và thất bại nhất định. Có nghĩa là, trong năm 2009, ngay ở những lĩnh vực rủi ro nhất, vẫn có xác xuất thành công.
Vì thế, để quyết định có đầu tư hay không, cần căn cứu vào thông tin cụ thể của dự án mà bạn đang quan tâm mới có thể quyết định được có nên đầu tư hay không.
Còn nếu chỉ căn cứ vào những thông tin chung chung thì sẽ rất khó để ra quyết định, đồng thời, còn có thể đánh mất cả cơ hội kinh doanh.
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Tôi hoàn toàn nhất trí với đánh giá của bạn.
Trước thực tế đó, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn tránh những lĩnh vực đầu tư có thể có rủi ro thì cần đánh giá đúng về năng lực và khả năng tài chính, xác định xem dự định đầu tư thực sự có phù hợp với nhu cầu thiết yếu của xã hội hay không.
Những ngành hàng có tính cạnh tranh cao, có quá nhiều doanh nghiệp đang đầu tư thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên tránh, không nên chạy đua theo phong trào. Nên có sự phân tích đánh giá đúng và tỉnh táo khi đầu tư, ưu tiên đầu tư lĩnh vực mới, đáp ứng dự báo nhu cầu của xã hội.
H.V:
Chúng ta đang đối diện với nhiều khó khăn, nói nhiều về khó khăn. Vậy xin lãnh đạo các doanh nghiệp cho biết có những cơ sở nào để lạc quan về kinh tế năm 2009 không?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Lạc quan đầu tiên là năm 2008 các doanh nghiệp đã được tập dượt khó khăn và năm 2009 dù có khó khăn hơn chút nữa thì các doanh nghiệp cũng đã xác định được và chuẩn bị được những bước đi vững chắc hơn.
Đồng thời, Chính phủ và các ngành chức năng cũng đã thấy rõ khó khăn của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng nên đã có những giải pháp để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn tạm thời, hướng tới tương lai tốt hơn vào cuối năm 2009.
Thư hai, về tâm lý thì các nước đang phát triển vẫn nhìn vào kinh tế của Mỹ và đặc biệt là kết quả bầu cử và thắng cử của ông Obama. Nền kinh tế Mỹ chắc chắn sẽ có biến chuyển tích cực hơn.
Bên cạnh đó, việc giải quyết khủng hoảng đã trở thành nhiệm vụ chung của cả thế giới, các cường quốc lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật... đã có những giải pháp kích cầu và đầu tư. Kinh tế thế giới năm 2009 cũng có triển vọng sáng sủa hơn và đó chính là cơ hội kích cầu xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ ba, giảm phát đang đến gần với các nước trên thế giới, khó khăn thì nhiều nhưng đây cũng là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh với giá thành đầu vào hạ (kể cả giá nhập khẩu) thậm chí chỉ bằng nửa giá cả đầu năm 2008. Cơ hội phát triển sẽ tốt hơn!
Thứ tư, "cái khó ló cái khôn", qua cơn bão tài chính năm 2008 các doanh nghiệp có thời gian tự nhìn nhận lại mình - nhất là trong lĩnh vực đầu tư, đã rút ra được nhiều bài học và xác định được mình đang đứng ở đâu để có bước đi thế nào cho phù hợp, đồng thời các doanh nghiệp đều nghĩ đến việc cải cách, cạnh tranh, bứt phá để chất lượng hoạt động của từng doanh nghiệp hiệu quả hơn.
SME (doanhnghiepnho@yahoo.com):
Các đại biểu là lãnh đạo của các doanh nghiệp lớn, thuộc nhà nước hoặc có phần vốn lớn của nhà nước. Trong khi khó khăn hiện nay tập trung ở nhiều doanh nghiệp nhỏ, tư nhân. Vậy các đại biểu có hiểu được khó khăn của những doanh nghiệp nhỏ đó không?
Ông Lương Hoài Nam:
Jetstar Pacific nằm trong số 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, nhưng cũng có thể coi là một doanh nghiệp vừa và nhỏ nếu so sánh với thế giới. Những khó khăn hiện nay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là có thật, nhưng đừng nghĩ các doanh nghiệp nhà nước lớn không có khó khăn hoặc ít khó khăn hơn.
Một lý do rất đơn giản: thuyền lớn sóng lớn. Tôi cho rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể vượt qua giai đoạn khủng hoảng dễ hơn so với các doanh nghiệp lớn.
Sỹ Hoàng (hoangbs2002@yahoo.com):
Tôi nghĩ với những doanh nghiệp vững mạnh thì năm 2009 là năm nhiều cơ hội để chiếm lĩnh thị phần, vượt xa những đối thủ cạnh tranh. Ý kiến của các doanh nghiệp thế nào? Trân trọng cảm ơn!
Ông Lương Hoài Nam:
Trong thời buổi khủng hoảng cũng xuất hiện một số cơ hội tốt mà doanh nghiệp có thể tận dụng để chiếm lĩnh thị phần, bứt lên đối thủ cạnh tranh.
Hãng hàng không giá rẻ Air Asia của Malaysia bắt đầu hoạt động ngay sau cuộc khủng bố 11/9 gây ảnh hưởng kinh hoàng đến ngành vận tải hàng không thế giới, kể cả hãng nhà nước Malaysia Airlines. Air Asia đã tận được giá máy bay rẻ, giá phi công rẻ, phí sân bay rẻ… để phát triển hiệu quả bên cạnh một hãng nhà nước đang lâm vào khó khăn.
Nhưng những trường hợp như Air Asia không có nhiều. Khi có một Air Asia thành công thì có tới hàng chục hãng hàng không phá sản do sự kiện 11/9.
Lời khuyên của tôi đối với các doanh nghiệp là cẩn trọng, đừng manh động. Khi VN-Index 500 điểm có người nghĩ cơ hội đầu tư đến rồi, đây là lúc mua vào. Ngày hôm nay, VN-Index chỉ còn hơn một nửa con số đó…
Một số bạn đọc:
Những tháng cuối năm tình hình xuất khẩu đã rất khó khăn. Xin hỏi trong năm 2009 tình hình có thể cải thiện hơn không?
Ông Lê Tiến Trường:
Thị trường xuất khẩu liên quan chặt chẽ tới tình hình kinh tế thế giới, cụ thể là tình hình kinh tế của các nước là thị trường xuất khẩu. Cho nên, nói chuyện tín hiệu xuất khẩu có tốt hay không, cần gắn cụ thể với một nền kinh tế nào đó.
Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là Mỹ và các nước châu Âu, Nhật Bản, cho nên, năm 2009 sẽ tiếp tục khó khăn.
Dự báo của IMF vừa qua cho rằng, kinh tế Mỹ có thể sụt giảm 0,5 - 0,7%, Nhật giảm trên 1%, châu Âu giảm 0,5 - 0,8%. Do đó, tổng quát thì thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm tới là khó khăn.
Tuy nhiên, từng doanh nghiệp với sáng tạo của mình, vẫn hoàn toàn có cơ hội tăng trưởng nếu tìm được ngách thị trường mà ở đó họ phát huy được lợi thế cạnh tranh cao nhất của mình, qua đó làm tăng thị phần của mình trên thị trường.
Rõ ràng, áp lực trong quản lý, trong chiến lược kinh doanh tới các nhà quản lý trong năm 2009 sẽ nặng nề hơn các năm trước.
Với riêng ngành dệt may, dự kiến năm 2009, tăng trưởng xuất khẩu chỉ đạt 5 - 7%. Tất nhiên, đây vẫn là một con số đầy thách thức, vì nhu cầu nhập khẩu dệt may của các thị trường chính năm tới được dự báo sẽ suy giảm xấp xỉ 10%. Trong đó, suy giảm nhiều nhất là nhu cầu các sản phẩm đắt tiền.
Các đơn vị sản xuất hàng cao cấp, vì thế, cần chuẩn bị theo hai hướng. Một là sản xuất hàng cao cấp cho nội địa. Hai là định hướng mở ra các thị trường mới.
Chondat:
Xin ông Nguyễn Đức Hưởng cho biết tình hình lãi suất cho vay và huy động năm 2009 sẽ diễn biến như thế nào?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Hiện nay chúng ta đang đứng trước nguy cơ suy giảm của nền kinh tế, vì vậy cung và cầu của thị trường đều có xu hướng giảm, từ đó cung cầu vốn cũng sẽ giảm theo. Vì vậy năm 2009 lãi suất huy động và cho vay có thể sẽ xác lập một mặt bằng mới theo xu hướng thấp hơn năm 2008.
Có như vậy, các doanh nghiệp mới "dễ thở" và hoạt động ngân hàng cũng sẽ bớt rủi ro hơn, bởi "bong bóng" giá cả thị trường năm 2009 sẽ "xẹp" hơn năm 2008. Như vậy, cả doanh nghiệp và ngân hàng dễ gần nhau hơn, cùng nhau phát triển theo đúng quy luật thị trường.
Chondat:
Xin đại diện các doanh nghiệp cho biết nhận định về triển vọng phát triển ngành xây dựng, bất động sản, ngân hàng trong năm 2009.
Ông Nguyễn Thành Phương:
Triển vọng của ngành xây dựng trong năm 2009 sẽ tiếp tục phát triển. Đặc biệt, là các công trình về hạ tầng kỹ thuật sử dụng vốn tài trợ từ WB, ADB, ODA. Ngoài ra, các công trình như thủy điện, cầu đường, cấp thoát nước… cũng đang nhận được sự quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư và Chính phủ.
Hiện hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam so với các nước phát triển và yêu cầu phát triển của đất nước đề ra còn rất nhiều việc phải làm. Đây sẽ là cơ hội lớn cho ngành xây dựng phát triển.
Đối với thị trường bất động sản, do có sự đổ vỡ về bong bóng bất động sản trên thế giới và sự thắt chặt tín dụng đối với cho vay bất động sản của Ngân hàng Nhà nước đầu năm 2008 đã làm cho giá bất động sản trở về gần hơn hơn với giá trị thực.
Trong năm 2009, cầu đối với bất động sản sẽ suy giảm ở Việt Nam và mức giá cũng hợp lý hơn, nên những nhà kinh doanh bất động sản phải có những điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho phù hợp hơn trong tình hình mới.
Một số bạn đọc:
Giá nhiên liệu đã giảm rất mạnh thời gian qua, như thế Jetstar Pacific sẽ có nhiều thuận lợi để bù đắp lại những thiệt hại từ giá nhiên liệu đầu năm 2008? Thuận lợi đó như thế nào và giá vé có giảm theo không?
Ông Lương Hoài Nam:
Ngày 14/12 tới chúng tôi sẽ công bố chương trình “Cam kết giá vé rẻ nhất”, đảm bảo giá vé của Jetstar Pacific luôn luôn là giá vé rẻ nhất trên cùng một đường bay. Đây là cam kết pháp lý chứ không phải chỉ là lời hứa suông.
Anh Minh (tinhomnay@yahoo.com):
Có thể xác định bao giờ Jetstar Pacific vượt qua được những khó khăn hiện nay?
Ông Lương Hoài Nam:
Yêu cầu của các cổ đông của chúng tôi rất rõ ràng, ngắn gọn: làm thế nào thì làm, năm 2009 phải có lãi, kể cả trong điều kiện khủng hoảng kinh tế.
Hoàng Lan (hoanglan_111@yahoo.com):
Thời gian qua có khá nhiều lời bình luận trái chiều về hoạt động của Jetstar Pacific, có ý kiến nào thực sự bổ ích với Jetstar Pacific trong chặng đường khó khăn phía trước?
Ông Lương Hoài Nam:
Jetstar Pacific đã làm được một số việc: bước đầu tạo sự cạnh tranh trên thị trường hàng không nội địa, mang lại dịch vụ hàng không giá rẻ cho gần 1,5 triệu hành khách trong năm 2008, trong đó có nhiều người lần đầu tiên đi máy bay. Một trách nhiệm lớn mà chúng tôi chưa làm được, đó là mang lại lợi nhuận cho các cổ đông.
Chúng tôi nợ các cổ đông điều này để thực hiện trong năm sau, nhưng vẫn không thay đổi mục tiêu giá vé rẻ.
Thanh Chương (ducjo2000@yahoo.com, 12:07 11/12/2008):
Tôi chờ đợi có các chặng bay ngắn như Hà Nội - Đà Nẵng, Hà Nội - Huế, thậm chí Hà Nội - Vinh cho những kỳ nghỉ ngắn ngày, hoặc về quê. Bao giờ thì Jetstar mới có thể đáp ứng được? Trân trọng cảm ơn.
Ông Lương Hoài Nam:
Chào bạn, đường bay Hà Nội - Vinh ngắn quá, chưa kịp cất cánh hết đã phải hạ cánh, chắc sẽ không có hãng nào bay. Hà Nội - Đà Nẵng thì Jetstar Pacific đang bay, còn Hà Nội - Huế chúng tôi cũng có kế hoạch nhưng đang tạm hoãn do điều chỉnh kế hoạch đối phó khủng hoảng.
Hồng Minh (och_thk@yahoo.com):
Không hiểu sao tôi thấy thương hiệu Pacific Airlines quen thuộc hơn và gần gũi hơn. Không biết với anh Nam thì thế nào? Vì sao lại đổi tên là Jetstar Pacific, mà gần đây tôi mới biết đó là tên mới của Pacific Airlines trước đây?
Ông Lương Hoài Nam:
Việc chúng tôi mua thương hiệu Jetstar của hãng hàng không giá rẻ Jetstar Airways (Úc) thuộc Tập đoàn Qantas Airways là bước chuẩn bị cho việc mở rộng mạng đường bay quốc tế nơi mà thương hiệu Pacific Airlines rất yếu, không đủ sức cạnh tranh.
Ví dụ, Jetstar Airways đã chi phí 30 triệu USD để quảng bá thương hiệu Jetstar ở Nhật Bản. Nếu chúng tôi bay đến Nhật Bản dưới thương hiệu Pacific Airlines chắc chắn cũng phải đầu tư một khoản kha khá để quảng bá thương hiệu của mình, còn sử dụng luôn thương hiệu Jestar thì tiết kiệm được khoản này, tiết kiệm cả thời gian nữa.
Đồng thời, việc khai thác dưới thương hiệu Jetstar cho phép chúng tôi cung ứng nhiều dịch vụ du lịch có sẵn của hệ thống Jetstar toàn cầu mà chúng tôi một mình không đủ sức làm, ví dụ như đặt chỗ khách sạn, bảo hiểm du lịch, thuê xe ô-tô ở các điểm đến…, không chỉ ở Việt Nam mà ở mọi nơi nào có ít nhất một hãng hàng không mang thương hiệu Jetstar có đường bay.
Bạn có thể tự kiểm nghiệm: chưa có hãng hàng không Việt Nam nào có những dịch vụ này bán kèm vé máy bay. Chúng tôi đã nghiên cứu và thấy tự làm không phải là dễ, chưa nói đến chuyện giá của mình sẽ cao hơn.
Hoàng Hưng Hào:
Giá hàng xuất khẩu liên tục sụt giảm từ cuối năm 2008, đặc biệt là hàng nông sản, thủy sản, đồ gỗ. Xin các doanh nghiệp dự báo tình hình giá trong năm 2009 sẽ như thế nào?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Thực ra năm 2008 các mặt hàng này có thời điểm tăng ảo và hiện nay đã về đúng giá trị thực của nó chứ không tới mức "liên tục sụt giảm". Kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt và vượt mục tiêu đặt ra.
Năm 2009 tất nhiên những mặt hàng này sẽ chịu ảnh hưởng chung, nhưng nếu các doanh nghiệp biết khai thác các thị trường ít chiụ ảnh hưởng của biến động kinh tế và duy trì tốt các đối tác truyền thống tại các thị trường cũ thì những ngành hàng này vẫn có khả năng phát triển.
Phạm Văn Mạnh (vp.manh@gmail.com):
Xin hỏi ông Nguyễn Thành Phương. Ông có thể cho biết tăng trưởng về doanh thu của Vinaconex năm 2009 sẽ ở mức nào? Hướng đầu tư trong năm 2009 và 2010 của Vinaconex sẽ được điều chỉnh như thế nào? Năm 2009 Vinaconex có tiến hành cắt giảm nhân công hay không? Cám ơn!
Ông Nguyễn Thành Phương:
Về tăng trưởng của Vinaconex trong 2009, doanh thu sẽ tăng khoảng 18% so với 2008. Tỷ lệ lợi nhuận tăng khoảng 20% so với 2008.
Hướng đầu tư của Vinaconex trong hai năm tới sẽ tập trung vào các giá trị cốt lõi là xây dựng và kinh doanh bất động sản, sản xuất vật liệu xây dựng, thương mại.
Sự phát triển của Vinaconex thường phải đi kèm với sự phát triển của nhân lực và chuyên nghiệp hóa lực lượng xây dựng theo những chuyên ngành cụ thể. Do đó, Vinaconex sẽ chỉ cắt giảm những nhân lực không phù hợp và tiếp nhận những nhân lực có tay nghề và chuyên môn cao về Tổng công ty.
Thế Hùng:
Chào anh Trường, tôi nhớ hội thảo tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân mới đây, anh có nói là trong khó khăn thì liên kết các công ty thành viên để giảm chi phí sản xuất, là một giải pháp tốt trong khó khăn. Anh có thể phân tích cụ thể hơn không?
Ông Lê Tiến Trường:
Liên kết giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành với mục tiêu tận dụng nguồn lực chung như tồn kho nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, khả năng sản xuất với chi phí thấp nhất cho một mặt hàng nào đó.
Tức là thông qua liên kết để giải quyết hai vấn đề: Một là giảm được nguồn vốn lưu động; hai là phân công trong chuỗi liên kết đúng đơn vị có lợi thế cạnh tranh tốt nhất trong một loại mặt hàng sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó.
Cụ thể là, nếu có một hệ thống liên thông để kiểm soát tồn kho nguyên vật liệu của các doanh nghiệp sản xuất cùng dạng mặt hàng, sẽ có khả năng tận dụng được nguồn nguyên liệu mà đơn vị này đang sẵn có, mà đơn vị khác lại cần dùng.
Tất nhiên, để giải quyết vấn đề liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành, cần sự đồng thuận tuyệt đối giữa lãnh đạo các doanh nghiệp đảm bảo thực hiện mọi cam kết của chuỗi liên kết. Thông thường, biện pháp này có thể được áp dụng trong các tập đoàn kinh tế có sự chia sẻ nguồn vốn chung và có sự điều tiết của cơ quan lãnh đạo tập đoàn.
Thu Hương:
Chào bác Phương, cháu là một sinh viên. Cháu có suy nghĩ thế này: kinh tế thế giới khó khăn, thất nghiệp là một xu hướng trong năm 2009. Thế thì những thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam có giảm nhu cầu không? Cháu biết Vinaconex là một đơn vị có hoạt động xuất khẩu lao động rất mạnh. Cháu cảm ơn.
Ông Nguyễn Thành Phương:
Chào cháu Hương.
Hiện nay, các thị trường xuất khẩu lao động truyền thống của Vinaconex như: Trung Đông, Hàn Quốc, Nhật Bản có biến động đi xuống. Nhưng Vinaconex đã tính tới phương án mở rộng thị trường ra các quốc gia khác ở châu Âu hay Angieri.
Bên cạnh đó, phương thức xuất khẩu lao động cũng có sự thay đổi từ xuất khẩu lao động thuần túy sang nhận thầu xây dựng tại nước ngoài. Bác nghĩ về tổng thể trong năm 2009, tình hình xuất khẩu lao động sẽ không bị ảnh hưởng nhiều.
Nguyen Duc Thien (Maihoacu@yahoo.com):
Xin hỏi ông Lê Tiến Trường, năm 2009, nếu phải cắt giảm nhân công thì Tập đoàn Dệt may sẽ cắt giảm bao nhiêu %?
Ông Lê Tiến Trường:
Trước hết, cần khẳng định với bạn, lãnh đạo Vinatex quyết tâm duy trì đủ việc làm cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của mình.
Tuy nhiên, trong điều kiện khó khăn về thị trường, số lượng việc làm chỉ có thể được duy trì ổn định nếu năng suất lao động, giá thành sản xuất của các đơn vị giảm hơn so với các năm trước, qua đó, doanh nghiệp duy trì được đơn hàng vì lợi thế cạnh tranh của mình.
Chính vì vậy, người lao động có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì được số lượng đơn hàng, tức là duy trì được việc làm. Làm tốt việc cải tiến năng suất và tiết kiệm, tôi tin rằng, Tập đoàn Dệt may sẽ duy trì được số lượng lao động hiện tại.
Chu Thị Huyền:
Xin cho biết tình hình đơn hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp chuẩn bị cho năm 2009, có những thay đổi gì so với đầu năm 2008? Trân trọng cảm ơn.
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Chào bạn, có thể nói các ngành hàng chủ lực đã có dự báo đơn hàng tương đối ổn định cho năm 2009, như dầu thô, gạo, cao su... Một số ngành hàng như dệt may, da giày, thủy sản vẫn duy trì quan hệ tương đối ổn định với các đối tác truyền thống.
Theo dự báo biến động tỷ giá sẽ không lớn như đầu năm 2008, nên khả năng duy trì mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu khoảng 20% nhiều khả năng sẽ đạt.
Với Hapro chúng tôi thì những đơn hàng như nông sản, rau củ quả chế biến xuất sang thị trường Nga đã được thỏa thuận ổn định cho năm 2009 với mức tăng trưởng 30% trở lên (đây là thị trường mới).
Còn với các thị trường khác, chúng tôi cơ bản vẫn duy trì ổn định.
Đỗ Kim Tuấn:
Những thị trường xuất khẩu trọng điểm của ta là Mỹ, EU, Nhật Bản, nhưng kinh tế tại đây đều rơi vào khó khăn. Các doanh nghiệp có thể chuyển hướng khai thác những thị trường mới không và có thể bù đắp lại không?
Ông Lê Tiến Trường:
Tìm kiếm thị trường mới để bù đắp chắc chắn là giải pháp đầu tiên tất cả các doanh nghiệp đều nghĩ tới trong năm 2009.
Nhưng phải thừa nhận rằng, không còn nhiều thị trường mới và tiềm năng trên thế giới để ta tấn công. Ba nền kinh tế chủ chốt của thế giới là Mỹ, Nhật và EU đều suy giảm, có nghĩa là trên 70% giá trị của nền kinh tế thế giới giảm sút.
Vì vậy, khả năng bù đắp sự suy giảm của ba nền kinh tế này là rất khó khăn. Tất nhiên, đây là khó khăn trên phương diện vĩ mô, nhưng nói tới mức độ vi mô ở cấp độ doanh nghiệp, việc bù đắp thiếu hụt này là điều có thể làm được.
Các thị trường mới có thể nhắm tới là thị trường Trung Đông, châu Phi...
Vũ Phong (phongv1980@yahoo.com):
Thưa ông Hưởng, theo ông các ngân hàng có sẵn sàng tài trợ cho các doanh nghiệp trong thời điểm khó khăn này không? Theo nhiều nguồn thông tin thì hiện tại các ngân hàng đang thừa vốn, tuy nhiên các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay lại không nhiều. Trong trường hợp này giải pháp của ông sẽ như thế nào?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Tôi nghĩ dù trong bất cứ điều kiện nào, các ngân hàng luôn luôn sẵn sàng tài trợ cho các doanh nghiệp thiếu vốn nhưng làm ăn có hiệu quả. Vì nếu không có khách hàng thì không có sự tồn tại của ngân hàng.
Hiện nay có tình trạng nhiều ngân hàng thừa vốn, nhưng nhiều doanh nghiệp lại không vay được vốn. Đó là sự thật!
Nhưng lỗi có thể do cả hai bên, vẫn còn một khoảng cách về sự tin tưởng. Ngân hàng thì đi tìm các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, minh bạch trong hoạt động tài chính, kinh tế. Nhưng các doanh nghiệp ấy lại đang chờ vào khả năng hạ lãi suất tiếp nên chưa vội vã vay ngay. Mặc dù hồ sơ vay vốn đã làm sẵn.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đã đến gõ cửa ngân hàng, nhưng ngân hàng lại chưa sẵn sàng cho vay vì các lý do:
Thứ nhất, có nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng vì quá thận trọng nên cho rằng tất cả các ngành kinh tế của Việt Nam đang khó khăn, thậm chí các doanh nghiệp lỗ và giải thể bất cứ lúc nào. Nên tạo nên tâm lý "sợ" doanh nghiệp.
Thứ hai, ngân hàng muốn cho vay nhưng nhiều dự án của các doanh nghiệp chưa đủ thuyết phục về hiệu quả kinh tế. Đặc biệt, cũng có rất nhiều doanh nghiệp, cán bộ tín dụng ngân hàng biết rõ là có khả năng trả nợ nếu vay vốn ngân hàng.
Nhưng sổ sách hạch toán lại không minh bạch. Hiện tượng hai sổ sách để trốn thuế còn rất phổ biến cho nên mặc dù thấy rõ khả năng trả nợ nhưng hồ sơ pháp lý không đảm bảo thì ngân hàng cũng không dám cho vay.
Về giải pháp cho vấn đề này, tôi cho rằng nhóm khách hàng thứ nhất (làm ăn có hiệu quả), phải tính đến phương châm hai bên cùng có lợi, ngân hàng phải chủ động bàn bạc với khách hàng về cơ chế áp dụng lãi suất linh hoạt có thể thay đổi theo từng thời điểm phù hợp, không áp dụng lãi suất cố định khi cho vay để khác hàng không phải đợi lãi suất xuống thấp mới vay sẽ mất cơ hội kinh doanh.
Nhóm khách hàng thứ hai (chưa tin nhau), cán bộ tín dụng ngân hàng phải thực hiện phương châm "cùng ăn cùng ở cùng làm" để hiểu rõ doanh nghiệp hơn. Không thể vì "con sâu bỏ rầu nồi canh".
Tuy có ngành kinh tế khó khăn nhưng không phải tất cả các doanh nghiệp trong ngành ấy đều bế tắc. Việc cho vay doanh nghiệp trong giai đoạn này là khó khăn, nhưng tư vấn được cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn mới là cái quý giá nhất.
Đối với nhóm khách hàng thứ ba (chưa đủ độ minh bạch), thì phải thực hiện theo phương châm "sống và làm việc theo đúng pháp luật". Thị trường tuy có khó khăn nhưng rất rộng mở, nên nếu "có duyên" hoặc biết tạo ra "duyên" thì doanh nghiệp và ngân hàng sẽ gắn chặt bên nhau cùng phát triển.
Nguyễn Thu Phương:
Tôi có đọc thông tin là xuất hiện dấu hiệu phá sản ở các doanh nghiệp dệt may trước tình hình kinh tế khó khăn. Xin hỏi các đại biểu, ngoài ra còn lĩnh vực nào hiện nay sẽ đối mặt với vấn đề phá sản?
Ông Lê Tiến Trường:
Nhìn chung, những doanh nghiệp làm thương mại thuần túy, những doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu là những doanh nghiệp có xác xuất cao trong việc đối mặt với những khó khăn kinh doanh và tài chính. Lý do tương đối đơn giản: Nhu cầu thương mại giảm đi, nhu cầu hàng xuất khẩu cũng giảm đi.
Do đó, những doanh nghiệp không có độ khác biệt hóa cao, hay giá thành thấp, sẽ phải đối diện nhiều khó khăn.
Đ.D.Chung:
Ngày 1/1/2009, các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập công ty phân phối hàng hóa 100% vốn nước ngoài. Liệu ngành phân phối trong nước sẽ cạnh tranh với khối ngoại dựa trên các chiến lược nào? Chiến lược nào được cho là chủ đạo?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Từ 1/1/2009, theo cam kết Việt Nam khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ mở cửa thị trường bán lẻ cho các doanh nghiệp, các tập đoàn bán lẻ nước ngoài vào cùng khai thác. Theo tôi, đây là một thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, tuy nhiên trong cạnh tranh các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam không chỉ có những thách thức mà còn có các cơ hội.
Là doanh nghiệp Việt Nam nên rất hiểu nhu cầu tiêu dùng của người Việt. Hơn nữa, hiện tại các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đã chủ động đầu tư xây dựng hệ thống riêng của mình và đã chiếm được niềm tin của người tiêu dùng, đã xây dựng được một số thương hiệu bán lẻ có uy tín như: Saigon Coop, Hapro mart, Intimex...
Các đơn vị này đã quan tâm đầu tư đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, dịch vụ, thái độ phục vụ khách hàng, đầu tư áp dụng công nghệ vào quá trình quản lý và chủ động xây dựng hệ thống logistic và thiết lập hệ thống cung cấp nguồn hàng ổn định, có nguồn gốc xuất xứ, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và giá cả hợp lý, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh khi có các đối tác nước ngoài cùng khai thác thị trường bán lẻ.
Khi các tập đoàn bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam, các doanh nghiệp bán lẻ trong nước cũng qua đây học hỏi được rất nhiều như kinh nghiệm quản lý vận hành hệ thống bán lẻ, khai thác nguồn hàng, công nghệ quản lý hàng hóa...
Đỗ Bích Hường:
Xin hỏi các diễn giả, có nên duy trì chính sách VND yếu so với ngoại tệ mạnh để hỗ trợ xuất khẩu – hạn chế nhập khẩu năm 2009? Nếu chính sách đó được thực thi thì nhập siêu của Việt Nam 2009 sẽ khoảng bao nhiêu tỷ USD?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm "duy trì chính sách VND yếu" so với ngoại tệ để hỗ trợ xuất khẩu... Tôi lại có ý kiến khác, "kích" phải trên cơ sở biết rõ cầu.
Tôi tin tưởng rằng Chính phủ sẽ điều hành tỷ giá linh hoạt trên cơ sở nhu cầu xuất khẩu thực tế chứ không thể cứ thực hiện chính sách VND yếu là hỗ trợ được xuất khẩu, vì nếu không tôn trọng quy luật thị trường thì giải pháp sẽ có tác dụng ngược lại, diễn biến tình hình xấu đi, hàng thì không xuất được mà tiền vẫn mất giá.
Nhập siêu của Việt Nam năm 2008 khoảng 18 tỷ USD. Năm 2009 chắc chắn sẽ giảm đi vì thực hiện gói giải pháp chống lạm phát và ngăn ngừa giảm phát của Chính phủ đều kích thích xuất khẩu, đồng thời quản lý chặt nhập khẩu.
Hữu Tuấn (ntuan1802@yahoo.com):
Xin hỏi đại diện các doanh nghiệp, trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới, nhiều nhận định của các chuyên gia, bộ ngành trong nước cho rằng Việt Nam không bị ảnh hưởng trực tiếp. Nhưng thực tế là nhiều doanh nghiệp hiện nay đang gặp khó khăn trực tiếp. Vậy thì công tác dự báo của chúng ta có chủ quan không? Với các doanh nghiệp thì ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đó sẽ như thế nào?
Ông Lê Tiến Trường:
Tôi cho rằng, ở giai đoạn đầu, các dự báo về ảnh hưởng không trực tiếp là những dự báo về thị trường tài chính, ngân hàng, cổ phiếu do việc không tham gia trực tiếp của các tổ chức tài chính của Việt Nam vào thị trường Mỹ, chứ không phải là những dự báo liên quan tới suy giảm kinh tế toàn cầu.
Do vậy, không thể nói rằng, đây là những dự báo mang tính chất chủ quan. Thực tế thì diễn biến của thị trường tài chính và kinh tế thế giới thời gian qua là những diễn biến rất khó dự báo, không chỉ đối với Việt Nam, mà đối với cả thế giới.
Tất nhiên, công tác dự báo của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, nhưng chính qua giai đoạn khó khăn này, theo tôi, năng lực, trình độ và sự quan tâm tới công tác dự báo đã có những thay đổi lớn. Hy vọng, đó sẽ là tiền đề cho chất lượng dự báo tốt hơn trong tương lai.
Trần Đức Vinh (tranvinh.tranvinh@gmail.com):
Xin ông Lê Tiến Trường cho biết: ông đánh giá như thế nào về tình hình dệt - may năm 2009? Sản xuất của các doanh nghiệp trong nước cũng như tình hình thị trường dệt may thế giới? Liệu ngành dệt may có suy giảm mạnh như các ngành khác không trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới?
Ông Lê Tiến Trường:
Theo dự báo của chúng tôi, dệt may Việt Nam năm 2009 vẫn có khả năng đạt tăng trưởng xuất khẩu 4 - 6%, mặc dù các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ, EU, và Nhật Bản đều suy giảm.
Tất nhiên so với tốc độ tăng trưởng liên tục trên 20% trong nhiều năm trước đây, mức dự báo tăng trưởng này là mức thấp, nghĩa là số lượng đơn đặt hàng tới các doanh nghiệp sẽ khan hiếm hơn các năm trước.
Tôi khẳng định, dệt may sẽ không suy giảm mạnh như một số lĩnh vực khác, nhưng cạnh tranh gay gắt hơn. Những đơn vị mới đầu tư, mở rộng, sẽ gặp khó khăn nhiều hơn do đơn hàng không dồi dào, chỉ đủ cho những “mối hàng” quen.
Trong dự báo, chúng tôi có ba kịch bản cho thị trường:
Thứ nhất, nếu các nền kinh tế trọng yếu trên thế giới phục hồi nhanh, trở lại quỹ đạo tăng trưởng vào quý 3/2009 thì dệt may cả năm có thể tăng trưởng trên 8%.
Thứ hai, nếu các nền kinh tế chưa phục hồi trong 2009, nhưng đã chấm dứt đà suy giảm, thì cả năm ngành có thể tăng trưởng 6%.
Thứ ba, nếu các nền kinh tế suy giảm chưa tới đáy trong năm 2009, tăng trưởng của ngành có thể chỉ đạt khoảng 4%.
Nguyễn Thu Phương:
Việc hội nhập sẽ mở rộng cho đối thủ nước ngoài với lĩnh vực phân phối, vậy ông Cảnh đánh giá thương hiệu của Hapro hiện nay đã đủ mạnh để cạnh tranh với họ trên chính sân nhà chưa? Và các giải pháp của tập đoàn là độc lập hay hợp tác với họ?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Trong lĩnh vực phân phối, thương hiệu Hapro Mart hiện nay đã được người tiêu dùng tín nhiệm. Tuy nhiên, để nói đủ mạnh để cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài trên chính sân nhà hay chưa thì cũng chỉ là tương đối.
Chúng tôi đã có quá trình chuẩn bị và từ tháng 11/2006 đã công bố nhận diện thương hiệu bán lẻ Hapro Mart. Đến nay hệ thống đã có tại Hà Nội và 9 tỉnh, thành miền bắc, đã đầu tư ứng dụng công nghệ phần mềm quản lý, đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, thiết lập hệ thống các nhà cung cấp, hệ thống kho tàng phương tiện vận tải...
Đây là bước đầu trong quá trình xây dựng, chúng tôi tiếp tục triển khai các bước tiếp theo để mở rộng hệ thống mạng lưới hạ tầng tới hầu hết các tỉnh, trước mắt tập trung ở các tỉnh miền bắc. Đây cũng là tạo vị thế trong cạnh tranh và hợp tác với các đối tác nước ngoài.
Quốc Dũng:
Xin hỏi anh Phương, anh có thể cho biết Vinaconex trong năm nay lỗ hay lãi từ bất động sản?
Ông Nguyễn Thành Phương:
Chào anh Dũng. Tôi có thể khẳng định năm 2008, Vinaconex đã lãi từ kinh doanh bất động sản. Những năm tiếp theo, Vinaconex vẫn tiếp tục thu được lợi nhuận từ lĩnh vực kinh doanh này.
Cụ thể, dự án khu đô thị mới Trung Hòa- Nhân Chính, khu đô thị Bắc An Khánh và khu du lịch Cái Giá- Cát Bà (Hải Phòng ) đã và đang mang lại nhiều lợi nhuận cho Vinaconex.
Như Lan CMC:
Tôi xin hỏi tại sao các doanh nghiệp ngành xây dựng, bất động sản hiện nay không mặn mà với các dự án nhà ở xã hội, cho người thu nhập thấp? Không biết bao giờ những người làm công ăn lương như chúng tôi mới mua nổi nhà với giá như hiện nay, dù đã giảm mạnh trong năm 2008?
Ông Nguyễn Thành Phương:
Hiện các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản chưa quan tâm nhiều tới các dự án nhà ở xã hội do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đối với các dự án này lợi nhuận mang lại cho các công ty đầu tư không cao. Khả năng thu hồi vốn chậm.
Thứ hai, chính quyền địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức và chưa có cơ chế ưu đãi đặc biệt đối với chính sách đất đai để xây dựng các dự án này.
Kinh nghiệm thực tế của Vinaconex trong việc thực hiện dự án thí điểm xây nhà ở xã hội cho những người có thu nhập thấp tại Kim Chung- Đông Anh (Hà Nội) đã cho thấy: Khi có sự quan tâm của chính quyền địa phương hỗ trợ về chính sách đất đai và sự đặt hàng của khu công nghiệp Bắc Thăng Long thì dự án được triển khai rất tốt.
Vì vậy, để các doanh nghiệp xây dựng quan tâm hơn tới đầu tư vào những dự án này rất cần có sự quan tâm của chính quyền địa phương như cơ chế thí điểm của thành phố Hà Nội. Khi doanh nghiệp có được những hỗ trợ trên thì những người lao động có thu nhập thấp sẽ có nhiều cơ hội mua được nhà ở với mức giá phù hợp.
Xin chào ông Hưởng, ông đánh giá thế nào về hoạt động của các ngân hàng trong năm 2009? Theo ông vấn đề lớn nhất mà các ngân hàng Việt Nam phải đối mặt trong năm 2009 là gì?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Năm 2009 sẽ là năm cực kỳ khó khăn của hoạt động ngân hàng Việt Nam, vì đó là "điểm rơi" khó khăn được hình thành từ những năm trước như hậu quả của đầu tư chứng khoán, liên doanh liên kết và đầu tư bất động sản.
Đồng thời, 2009 cũng là năm khó khăn của nền kinh tế, của các doanh nghiệp - trong đó có ngân hàng.
Vấn đề lớn nhất mà ngân hàng thương mại Việt Nam phải đối mặt không phải là "mất gì" mà phải làm thế nào để bước đi vững chắc sau khó khăn. Kinh nghiệm của các ngân hàng trên thế giới, hậu khủng hoảng thường là bước đột phá vượt bậc của sự cải tiến, đổi mới hoạt động để cạnh tranh và tạo thế tốt hơn.
Hiện nay, nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam đang phải đối mặt và tập trung quá nhiều sức vào việc xử lý khó khăn trước mắt mà quên nhiệm vụ lớn nhất phải đối mặt năm 2009 và những năm tiếp theo là hoạch định cải tiến, đổi mới thế nào để tồn tại và phát triển.
Trần Đức Vinh (tranvinh.tranvinh@gmail.com):
Xin ông Lương Hoài Nam đánh giá về thị trường hàng không năm 2009 và các năm tiếp theo?
Ông Lương Hoài Nam:
Năm 2009 sẽ tiếp tục là một năm khó khăn do thị trường sụt giảm, đặc biệt là nguồn khách du lịch quốc tế từ các thị trường truyền thống như Tây Âu, Bắc Mỹ, Đông Bắc Á.
Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các đường bay quốc tế và một phần cả các đường bay nội địa. Sự sụt giảm này đã và đang xảy ra và có thể ở mức độ cao hơn sau Tết Âm lịch.
Thị trường trong nước cũng đã không tăng trưởng từ quý 4/2008 trong khi khả năng cung ứng vận tải của tất cả các hãng hàng không Việt Nam tăng khá đáng kể so với năm 2008, dẫn đến nguy cơ dư thừa công suất khai thác, trong khi cơ hội tăng doanh thu là hết sức hạn chế.
Tôi nhận định tình hình này sẽ kéo dài ít nhất đến hết quý 3/2009.
Đối với các năm tiếp theo, Hiệp hội Các hãng hàng không quốc tế (IATA) và Trung tâm Tư vấn hàng không Châu Á - Thái Bình Dương nhận định năm 2010 ngành hàng không vẫn tiếp tục khó khăn.
Tuy nhiên cá nhân tôi lạc quan hơn và dự đoán các cơ hội tăng trưởng có thể xuất hiện trở lại từ cuối 2009.
Việt Vũ (vietminhvu@yahoo.com):
Thời gian qua dư luận chú ý về tình hình kinh doanh của Jetstar Pacific. Tôi thấy báo chí đề cập đến một nguyên nhân khó khăn của công ty là biến động tỷ giá, điều này cũng có ở nhiều doanh nghiệp khác, gần đây nổi bật là tại Nhiệt điện Phả Lại với khoản vay bằng ngoại tệ. Đó là khó khăn có thể dự báo trước, tại sao các doanh nghiệp lại không phòng ngừa được?
Ông Lương Hoài Nam:
Hiện tại Jetstar Pacific bay nội địa là chính, chỉ có một đường bay quốc tế bay liên danh với Bangkok Airways đi Bangkok.
Gần 100% doanh thu của chúng tôi là bằng đồng Việt Nam, trong khi 80% chi phí lại bằng USD (tiền thuê máy bay, xăng dầu, lương phi công, kỹ sư nước ngoài, vật tư phụ tùng máy bay…).
Vậy nên khi USD tăng giá so với tiền đồng như trong thời gian qua thì thiệt hại rất đáng kể.
Ở mức độ nhất định, biến động tỷ giá đồng và USD có thể dự báo được; tuy nhiên theo quy định hiện hành doanh nghiệp không được tích lũy và giữ tiền USD để sử dụng dần, khi có thì phải bán cho ngân hàng rồi khi cần thanh toán lại phải mua lại.
Nguyễn Mạnh Cường (saleshp@sse.com.vn):
Các ông nghĩ những ngành nghề, lĩnh vực nào sẽ ổn định và phát triển trong năm 2009?
Ông Lương Hoài Nam:
Tôi nghĩ những ngành nghề, mặt hàng nào đi vào cuộc sống và nhu cầu tiêu dùng thiết thực hàng ngày của mỗi gia đình vẫn có cơ hội kinh doanh tốt trong năm 2009 vì chi phí đầu vào có thể thấp hơn đáng kể. Khủng hoảng gì thì hằng ngày chúng ta vẫn phải đánh răng, gội đầu… Còn những hoạt động kinh doanh mang tính đầu cơ càng cao thì càng rủi ro.
Giáp Mạnh Quân (quankt48@gmail.com, 06:01 12/12/2008):
Chào các chú! Hiện tại cháu đang là sinh viên năm thứ 3. Năm tới cháu sẽ ra trường. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khủng hoảng và suy thoái như hiện nay, ít nhiều cũng ảnh hưởng tới thị trường lao động, thị trường tuyển dụng của Việt Nam. Vậy thì nhìn từ góc độ doanh nghiệp, với tư cách là những người trực tiếp tuyển dụng, các chú đánh giá thế nào về cơ hội việc làm của những sinh viên mới tốt nghiệp như bọn cháu?
Ông Lương Hoài Nam:
Một khi cơ hội việc làm cho các sinh viên mới ra trường không còn dồi dào như trước nữa thì ngoài kết quả học tập tốt, các em cần chủ động tìm kiếm và nộp hồ sơ thật nhiều nơi, kể cả chấp nhận làm việc tỉnh, thành phố khác và mức lương khởi điểm thấp. Tiêu chí quan trọng là khả năng tồn tại, phát triển lâu dài của doanh nghiệp mình xin việc.
Cũng không nhất thiết phải có việc hoàn toàn phù hợp với môn học, ngành học trong nhà trường. Kiến thức đại học có lẽ chỉ đóng góp tối đa 30% cho một công việc mới khi ra trường, 70% phải tự học và tích lũy qua công việc. Tự học, trau dồi, tích lũy qua công việc là hết sức quan trọng.
Phan Huy:
Nếu doanh nghiệp phân phối nước ngoài áp dụng chiến lược cạnh tranh về giá bằng cách tiết kiệm chí phí, mua hàng với khối lượng lớn để được chiết khấu % cao - giá mua hàng hóa thấp và hưởng lợi nhuận ít... thì doanh nghiệp phân phối Việt Nam nên có cách ứng phó như thế nào?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Cảm ơn câu hỏi của bạn, nhưng tôi nghĩ rằng đây không chỉ là cách các doanh nghiệp nước ngoài mới áp dụng mà các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã và đang làm như thế. Còn mức độ và hiệu quả đến đâu thì còn tùy thuộc vào cách thức của từng doanh nghiệp.
V.S.Hào:
Khó khăn của ngành may đã ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp dệt chúng tôi. Hiện hay, lượng hàng tồn kho của chúng tôi khá lớn và doanh số sụt giảm nhiều. Xin hỏi ông Trường có lời khuyên nào cho chúng tôi về sản phẩm, thị trường?
Ông Lê Tiến Trường:
Đúng là hiện nay, các doanh nghiệp ngành dệt đang rất khó khăn. Thị trường sợi trên thế giới đã suy giảm từ tháng 12/2007 và đến nay vẫn chưa có dấu hiệu hồi phục. Với kịch bản sáng sủa nhất của kinh tế thế giới trong năm 2009, cũng phải tới quý 2 hay quý 3 thị trường sợi mới có khả năng phục hồi.
Chính vì vậy, theo tôi, anh Hào nên cân nhắc đến dòng tiền của doanh nghiệp mình để quyết định giữ, hay bán tồn kho. Nếu dòng tiền quay về có khả năng đầu tư vào lĩnh vực sản phẩm thu hồi vốn nhanh hơn thì doanh nghiệp cũng nên cân nhắc.
Luan (luan_lengo@yahoo.com):
Xin hỏi, năm 2009 được dự báo sẽ là năm khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khi hai nền kinh tế lớn nhất là Mỹ và Nhật bản đã rơi vào suy thoái. Vậy với vị trí là lãnh đạo các doanh nghiệp, các anh đã chuẩn bị gì cho một “kịch bản” xấu nhất chưa?
Ông Lê Tiến Trường:
Công tác chuẩn bị trước tình hình khó khăn của thị trường kéo dài trong suốt cả năm 2008 và tới đây là năm 2009, tất cả các doanh nghiệp đều đã phải có nhiều nỗ lực đổi mới để vượt qua khó khăn.
Giải pháp của từng doanh nghiệp là bí mật về kinh doanh để vượt qua khó khăn, nhưng có thể tóm gọn trong mấy giải pháp cơ bản như sau.
- Sắp xếp lại bộ máy theo hướng tinh gọn,
- Tập trung vào nâng cao năng suất,
- Tiết kiệm triệt để, loại bỏ mọi chi phí không cần thiết,
- Cân nhắc việc tạm hoãn, giãn tiến độ các dự án đầu tư,
- Lựa chọn sản phẩm doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh nhất để phát huy.
V.V.Minh:
Việc sáp nhập ngân hàng có diễn ra mạnh trong năm 2009? Điều đó có tác động gì tới kết quả kinh doanh của khối ngân hàng trong năm 2009?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Thưa anh Minh, theo tôi, năm 2009 chưa diễn ra mạnh hoạt động sáp nhập các ngân hàng với nhau vì:
Thứ nhất, các điều kiện về thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại của Việt Nam đến nay chưa có gì ràng buộc các ngân hàng phải sáp nhập vào năm 2009. Đồng thời, tuy năm 2009 là năm khó khăn của các ngân hàng thương mại.
Nhưng khó khăn nhất đã rơi vào giữa năm 2008, nên các ngân hàng cũng đã tự nhìn nhận lại mình và sẽ có bước đi vững chắc hơn nhằm thóa gỡ khó khăn kịp thời những khó khăn năm 2009 và có kế hoạch cụ thể cho những năm tiếp theo.
Thứ hai, việc sáp nhập doanh nghiệp là rất bình thường trong nền kinh tế thị trường nhưng năm 2009 sẽ xảy ra không nhiều trong lĩnh vực ngân hàng, vì nếu có, thì chủ yếu là tự nguyện bản thân các ngân hàng có muốn sáp nhập hay không chứ chắc chắn là chưa có hiện tượng buộc phải sáp nhập.
Liên quan đến tác động từ việc sáp nhập ngân hàng có ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khối này năm 2009 hay không, tôi cho rằng việc sáp nhập (nếu có) chỉ thực hiện theo phương châm "liên kết phát triển" thì bản thân các ngân hàng sẽ mạnh lên, vì vậy kết quả hoạt động của khối ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ có tiến triển tốt hơn.
Võ Văn Dư:
Xin hỏi doanh nghiệp có thể cam kết bảo đảm giá hàng nông sản cho nông dân trong năm 2009 không? Có giải pháp nào để phòng ngừa rủi ro biến động giá không? Xin cám ơn.
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Chào bạn. Trong kinh tế thị trường giá cả luôn có sự biến động, nên doanh nghiệp chỉ có thể cam kết ngắn hạn. Và chính cam kết này cũng phần nào phòng ngừa rủi ro biến động, kể cả cho nông dân và cho các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh.
Cũng cần kiến nghị với người sản xuất rằng, cần có sự cam kết và thực hiện nghiêm túc với doanh nghiệp, kể cả khi có biến động về giá, để đảm bảo sự hợp tác lâu dài, giữ uy tín không chỉ cho doanh nghiệp mà còn duy trì giữ chữ tín với cả khách hàng nước ngoài.
Văn Thanh Nhàn:
Có nhiều ý kiến cho rằng, dù thị trường bất động sản trong thời gian qua khá trầm lắng, giá nhà đã liên tục giảm nhưng các chủ đầu tư vẫn có “siêu lợi nhuận” vì giá bán vẫn cao hơn nhiều so với chi phí xây nhà, thưa ông Phương?
Ông Nguyễn Thành Phương:
Thưa bạn, tôi chưa đồng tình lắm với nhận định trên. Quan điểm của cá nhân tôi là, kinh doanh bất động sản phải có đội ngũ xây dựng chuyên nghiệp và phải có những công nghệ xây dựng mới để giảm chi phí đầu tư cũng như thời gian xây dựng.
Ngoài ra, thiết kế và công năng sử dụng của dự án phải được khách hàng chấp nhận và tin tưởng. Điều này có nghĩa rằng, không phải doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh bất động sản nào cũng có thể thu được lợi nhuận.
Để thực hiện được điều này thì ngoài tính chuyên nghiệp, áp dụng công nghệ mới trong xây dựng, tiết kiệm thời gian, vật tư, vật liệu còn phải đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng…
HuynhTrungNhan (nhantrungsg@yahoo.com):
Tôi là một nhà đầu tư, thông tin dự báo đối với tôi và có lẽ là với nhiều người khác là rất quan trọng, vì giúp chúng tôi chủ động hơn trong hoạt động. Tuy nhiên, với những khó khăn của nhiều doanh nghiệp vừa qua cho thấy chúng ta vẫn còn rất thụ động trước những biến đổi của nền kinh tế trong cũng như ngoài nước. Vậy tôi xin phép hỏi rằng công tác dự báo tại các doanh nghiệp được coi trọng như thế nào, tính chính xác của nó thường ở mức nào? Xin cảm ơn!
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có tính hội nhập cao thì việc thu thập, xử lý thông tin để đưa ra dự báo là hết sức quan trọng.
Hiện nay lượng thông tin có thể thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng các số liệu thống kê từ mỗi nguồn lại có sự khác nhau. Cũng vì thế mà việc dự báo gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy tình trạng thụ động trong dự báo còn khá phổ biến.
Hapro rất coi trọng công tác dự báo. Chúng tôi đã hình thành một bộ phận chuyên thu thập, xử lý thông tin, đưa ra dự báo để tham mưu cho lãnh đạo. Tất nhiên đã là dự báo thì không thể chính xác tuyệt đối. Nhưng thực sự công tác dự báo đã giúp ích nhiều cho việc hoạch định chiến lược kinh doanh và định hướng cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Chi Mai (nciec@yahoo.com):
Kính chào các diễn giả. Theo tôi biết, khi kinh tế suy thoái các quốc gia có xu hướng gia tăng bảo hộ thương mại. Trên thực tế ở Việt Nam thời gian qua cũng có khá nhiều ý kiến quy kết những khó khăn hiện nay cho mở cửa, hội nhập. Theo các ông, trong thời gian này Việt Nam có nên tiếp tục thực hiện chính sách cải cách mở cửa, theo đuổi các vòng đàm phán tự do hoá thương mại với các đối tác?
Ông Lê Tiến Trường:
Tôi nghĩ đây là một vấn đề lớn, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của cả nước. Cho nên, nếu chỉ đứng trên giác độ lợi ích của một ngành thì có thể không đánh giá hết được những ảnh hưởng trong việc thực hiện chính sách bảo hộ, cũng như hệ lụy có thể ảnh hướng đến những ngành khác.
Do vậy, để cân nhắc quyết định chính sách bảo hộ, nếu có, cần có sự chủ trì của cơ quan quản lý Nhà nước với sự tham gia của đại diện các hiệp hội, các tập đoàn kinh tế liên quan, nhằm đánh giá toàn diện ảnh hưởng của một chính sách mới, đảm bảo mục tiêu phát triển chung của cả nước, cũng như vai trò, vị trí, quan hệ của Việt Nam với các nền kinh tế khác trong tương lai.
Bankervn:
Liệu có những cuộc đổi ngôi trên thị trường ngân hàng và chứng khoán trong năm 2009 không, khi những tổ chức mới ra đời ở hai lĩnh vực này “lành mạnh” hơn những thành viên đi trước?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
"Đổi ngôi" là hiện tượng bình thường trong hoạt động của cơ chế thị trường, vì vậy, mọi thứ đều có thể xảy ra!
Đặc biệt có trải qua khó khăn thì mới biết được "sức khỏe" thực sự của các doanh nghiệp nói chung - của ngân hàng, công ty chứng khoán nói riêng phụ thuộc vào sự hoạch định chiến lược, bước đi cụ thể, việc dự báo và phòng ngừa rủi ro.
Riêng hoạt động ngân hàng và chứng khoán, theo tôi có 4 yếu tố quyết định trong cạnh tranh, đó là:
1. Quy mô tổng tài sản
2. Nhân lực
3. Hiện đại hóa công nghệ
4. Quản trị điều hành theo chuẩn mực quốc tế.
Trong bốn yếu tố trên thì yếu tố nhân lực là yếu tố quan trọng nhất. Bốn yếu tố trên so với các ngân hàng nước ngoài thì ngân hàng Việt Nam đang ở thế yếu. Sự tồn tại phát triển hoặc "đổi ngôi" chắc chắn sẽ diễn ra và đến với ngân hàng nào có chiến lược tốt và bước đi đúng đắn.
Tôi nghĩ tâm lý của chúng ta hiện nay rất bi quan. Tuy nhiên tình hình chưa hẳn đã xấu đến như vậy. Ví dụ như chúng ta nhận định kinh tế thế giới suy thoái, năm 2008, ngành dệt may sẽ rất khó khăn. Tuy nhiên kết quả là 2008 chúng ta vẫn đạt mức tăng trưởng xuất khẩu dệt may trên 20%. Xin ông Trường cho biết công tác dự báo của chúng ta có thể nói là kém được không?
Ông Lê Tiến Trường:
Thực tế, mức tăng trưởng trên 20% của ngành dệt may là mức thấp so với nhiều năm trở lại đây. Cho nên, không thể gọi con số đó là rất khả quan.
Theo dự báo ban đầu, khi chưa có các biểu hiện của suy giảm kinh tế, dệt may Việt Nam có khả năng xuất khẩu 9,5 -10 tỷ USD trong năm 2008. Nhưng tới tháng 8/2008, chúng tôi đã xác định là không thể đạt 9,5 tỷ USD mà chỉ có khả năng đạt khoảng 9,2 tỷ USD.
Tiếp đó, đến tháng 10/2008, chúng tôi đã điều chỉnh dự báo kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam cả năm 2008 chỉ còn khoảng 9-9,1 tỷ USD. Thực tế đến nay, tôi nghĩ sẽ đạt con số này.
Như vậy, trong lĩnh vực dệt may, chúng tôi đánh giá công tác dự báo là khá bám sát với thực tế thị trường.
Thuvanmart:
Hapro đã tự tin để đón cuộc hội nhập chính thức của thị trường bán lẻ từ năm 2009 chưa, thưa ông Cảnh? Đâu là những điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Cảm ơn sự quan tâm của bạn với doanh nghiệp chúng tôi. Hapro luôn luôn tự tin đón quá trình hội nhập chính thức của thị trường bán lẻ.
Trong lĩnh vực bán lẻ, các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có Hapro đều mới nhập cuộc nên còn rất nhiều điểm yếu. Cụ thể như kinh nghiệm quản lý điều hành hệ thống bán lẻ, tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực, xây dựng hệ thống các nhà cung cấp ổn định, hệ thống logestic...
Để khắc phục tình trạng này không thể đốt cháy giai đoạn mà cần phải có lộ trình và đầu tư từng bước. Mặt khác cũng tranh thủ quá trình hội nhập để học hỏi kinh nghiệm và tự hoàn thiện.
Thuy:
Xin hỏi ông Nguyễn Thành Phương. Theo tỷ lệ lợi nhuận năm 2009 tăng khoảng 20% so với năm 2008, trong khi giá cổ phiếu cua Vinaconex đã giảm giá rất nhiều (15.300 đồng) sau khi cộng cả giá hỗ trợ khi phát hành thêm bán cho cổ đông chiến lược (20.000 đồng). Vậy đến thời điểm nộp tiền mua cổ phiếu thưởng của Vinaconex, nếu giá vẫn thấp thế này thì lãnh đạo công ty sẽ khắc phục tình trạng bán cổ phiếu thưởng cao hơn giá niêm yết trên sàn như thế nào để bảo vệ cổ đông? Nếu không thì có thể bán lại cổ phiếu thưởng lại cho công ty để công ty mua làm cổ phiếu quỹ được không? Nếu mua thì giá mua là bao nhiêu?
Ông Nguyễn Thành Phương:
Chào bạn, trước hết tôi xin khẳng định, mức giá 20.000 đồng/cổ phiếu sắp phát hành đã được thông qua tại đại hội đồng cổ đông và đã được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận.
Thời điểm này, giá cổ phiếu của Vinaconex trên sàn tuy chỉ còn 15.300 đồng/cổ phiếu, nhưng hạn cuối các cổ đông phải nộp tiền là 6/1/2009. Trường hợp tới thời điểm đó, giá cổ phiếu trên sàn vẫn không hấp dẫn nhà đầu tư thì các cổ đông vẫn có quyền từ chối quyền mua.
Trong trường hợp, cổ phiếu phát hành thêm bán không hết Vinaconex sẽ mời các nhà đầu tư chiến lược đến thương thảo mua lại với giá không thấp hơn mức giá này. Đại hội đồng cổ đông đã ủy quyền cho Hội đồng Quản trị xử lý và báo cáo lại tại đại hội đồng cổ đông phiên gần nhất.
Tuấn Giao:
Xin hỏi năm 2009, LienVietBank đặt mục tiêu lợi nhuận bao nhiêu? Cách nào để đạt được trong bối cảnh khó khăn dự báo sắp tới?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Do "sinh sau đẻ muộn" nên LienVietBank đã học được những bài học thành công và chưa thành công của các ngân hàng bạn để xác định con đường đi riêng của mình để có hiệu quả. Bước đầu, đã có những thành công nhất định.
Hiện nay, tổng tài sản của LienVietBank qua 7 tháng hoạt động đã lên tới gần 8.000 tỷ đồng, lợi nhuận gần 500 tỷ đồng, trả cổ tức cho cổ đông 7 tháng năm 2008 là 9%. Mục tiêu lợi nhuận của LienVietBank năm 2009 là cao hơn năm 2008.
"Vạn sự khởi đầu nan", sinh ra đúng thời điểm cực kỳ khó khăn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nhưng chúng tôi vẫn đạt được kết quả trên, thì năm 2009, chắc chắn chúng tôi sẽ hoạt động tốt hơn năm 2008, vì chúng tôi tôn trọng tôn chỉ "Đổi mới - An toàn - Hiệu quả" và liên kết phát triển.
Hanh Nguyen (gttron@yahoo.com.vn):
Thưa ông Lương Hoài Nam, theo ông ngành du lịch Việt Nam sẽ phải đối mặt với những khó khăn chính nào (nếu có) trong năm 2009? Như ông đã trả lời ở trên, việc thay đổi tên thương hiệu, lựa chọn mua lại quyền sử dụng thương hiệu Jetstar là một quyết định nhằm tiết kiệm chi phí và rút ngắn thời gian quảng bá thương hiệu tại nước ngoài, vậy xin ông cho biết đứng trước những thách thức và khó khăn năm 2009, Jetstar có cắt giảm mạnh ngân sách PR, quảng cáo và nhất là giảm các hoạt động khuyến mại áp dụng cho khách hàng trong thời gian vừa qua?
Ông Lương Hoài Nam:
Thách thức chính đối với ngành du lịch, hàng không trong năm 2009 là nguy cơ giảm sút lượng hành khách nội địa và quốc tế khi nền kinh tế gặp khó khăn và thu nhập thực của người dân giảm (cả trong và ngoài nước) thì việc đi máy bay, du lịch là một trong những nội dung cắt giảm đầu tiên.
Vì vậy, các hãng hàng không trong đó có Jetstar Pacific cần điều chỉnh quy mô khai thác cho phù hợp để cắt giảm chi phí. Đồng thời tìm mọi cơ hội kích cầu, tăng doanh thu, kể cả từ việc kinh doanh các dịch vụ giá trị gia tăng ngoài giá vé máy bay.
Về chi phí thương hiệu, đây là một phần của chi phí bán, trong năm 2008 chúng tôi chi 5% cho tất cả các hoạt động bán. Tuy nhiên, sang năm 2009 chi phí bán dự kiến sẽ chỉ chiếm 3%, trong đó chi phí cho PR, quảng cáo không đáng kể.
Nguyễn Hữu Tuyển (vietnamtuyen@gmail.com):
Chào anh Lương Hoài Nam! Chúc sức kkhỏe của anh và Jetstar! Theo dõi báo chí thấy nói rằng Jetstar đang gặp nhiều khó khăn từ cơ chế và từ chính sách khuyến mãi của hãng. Anh có thể cho ý kiến về quan điểm này không? Nếu Chính phủ không chấp thuận cho phép Qantas tăng cổ phần và khai thác trực tiếp đường bay nội địa đối với Jestar, hãng sẽ phải cải tổ theo xu hướng nào? Dư luận cho rằng Qantas đang muốn thôn tính Jestar Pacific Airlines, ý kiến của anh về việc này như thế nào?
Ông Lương Hoài Nam:
Các khó khăn Jetstar Pacific gặp phải trong năm 2008 chủ yếu là do biến động giá xăng dầu trong điều kiện khống chế trần giá vé máy bay nội địa chứ không phải là do chính sách khuyến mãi.
Các cổ đông của Công ty đã có giải pháp cơ cấu lại vốn để Công ty tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Jetstar Pacific là doanh nghiệp hàng không Việt Nam, mặc dù có một tỷ lệ cổ phần của Qantas, vì vậy không có chuyện ai đó không cho công ty bay nội địa, quốc tế.
Theo luật hàng không và các quy định hiện hành, Qantas chỉ được phép chiếm tối đa 30% cổ phần và tham gia điều hành tối đa 1/3 các vị trí quản lý trong công ty, vì vậy nguy cơ thôn tính như một số người đề cập hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và thực tiễn.
Vuong Lan Hung:
Tôi cho rằng trong lúc tình hình khó khăn như thế này, Chính phủ phải có chỉ đạo cụ thể hơn với các thương vụ để giúp doanh nghiệp tiêu thụ tốt sản phẩm, tìm thêm đối tác, thị trường mới. Ví dụ như phải áp chỉ tiêu kim ngạch cho các thương vụ và có thưởng, phạt cụ thể hơn. Ý kiến của ông Cảnh thế nào?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Kiến nghị của bạn hiện nay đã và đang được thực hiện. Các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đã được giao chỉ tiêu tăng trưởng kim ngạch cụ thể và để đạt được yêu cầu đó thì không thể không hỗ trợ các doanh nghiệp về các thông tin, tìm kiếm thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu.
Không chỉ có các cơ quan thương vụ mà với các cơ quan đại diện ngoại giao thì nhiệm vụ phát triển kinh tế cũng là nhiệm vụ hàng đầu.
Tam Pham (rong1471982@yahoo.com):
Trước đây, doanh nghiệp ta đã rất vất vả để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam qua làn sóng WTO. Vậy, các doanh nghiệp Việt Nam đã có những chính sách cụ thể và triệt để như thế nào để thoát khỏi 2 bức tường: một bên là làn sóng WTO và một bên là tình hình suy thoái kinh tế đang diễn ra hầu hết ở các quốc gia trên thế giới?
Ông Trần Mạnh Cảnh:
Trong hội nhập luôn có cả thời cơ và thách thức.
Việc chúng ta vào WTO được hưởng những cơ hội trong kinh doanh thì cũng buộc phải chấp nhận những rủi ro thách thức, ảnh hưởng của quá trình hội nhập. Tận dụng cơ hội và tránh những rủi ro như thế nào thì phụ thuộc vào giải pháp của từng doanh nghiệp, trong đó có sự điều tiết kịp thời của Nhà nước.
Thực tế năm 2008 vừa qua đã chứng minh việc các doanh nghiệp tận dụng cơ hội và khắc phục những ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu.
Phạm Văn Mạnh (vp.manh@gmail.com):
Năm 2009 lợi nhuận của Vinaconex sẽ tăng khoảng 20% so với năm 2008. Một con số ấn tượng, không mà là rất ấn tượng (tôi hy vọng là lợi nhuận sau thuế). Xin hỏi nếu không có gói 1 tỷ USD nhằm kích cầu (ưu tiên cho đầu tư xây dựng cơ bản) của Chính phủ thì liệu Vinaconex có đặt chỉ tiêu lợi nhuận mức 20% như trên hay không? Giả sử Vinaconex gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh thì những mục chi phí nào sẽ được "ưu tiên" cắt giảm? Chúc ông và Vinaconex thành công hơn nữa!
Ông Nguyễn Thành Phương:
Mức chỉ tiêu lợi nhuận nêu trên (trước thuế) được Vinaconex đặt ra không dựa nhiều vào gói kích cầu 1 tỷ USD của Chính phủ, mà chủ yếu dựa trên những dự án chúng tôi đã nhận được và các dự án kinh doanh nằm trong tầm kiểm soát của Vinaconex.
Trong trường hợp Vinaconex gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, việc đầu tiên chúng tôi làm là giãn những dự án đầu tư chưa mang lại hiệu quả trong ngắn hạn. Tiếp đến, Vinaconex sẽ thoái vốn ở một số dự án và các công ty thành viên không mang lại hiệu quả mong muốn.
Bùi Văn Tiến (buivantien1102@yahoo.com):
Xin hỏi ông Nguyễn Đức Hưởng, Ngân hàng Liên Việt hiện đang hoạt động như thế nào? Có gặp khó khăn gì không? Nghe nói ông lãnh lương cao nhất ở vị trí tổng giám đốc ngân hàng tại Việt Nam (17.000 USD/tháng) có phải không?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Ngân hàng Liên Việt đang hoạt động rất có hiệu quả vì chúng tôi đã hoạch định bước đi hợp lý trong điều kiện ngân hàng thương mại Việt Nam gặp khó khăn.
Về thu nhập, tôi không nghĩ rằng tôi lãnh lương cao nhất Việt Nam ở vị trí tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng số tiền lương đấy gần đúng rồi đấy!
Thu Phương:
Xin hỏi ông Nguyễn Đức Hưởng: Việt Nam đang bị đánh giá là có quá nhiều ngân hàng, vậy chiến lược phát triển của một ngân hàng mới như Liên Việt sẽ thế nào trong giai đoạn khó khăn này?
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Đúng là ở Việt Nam đang có rất nhiều ngân hàng, nếu so sánh với các nước láng giềng thì Trung Quốc có hơn 1 tỷ dân chỉ có 13 ngân hàng cổ phần, Singapore chỉ có 3 ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng ở Việt Nam có tới gần 80 ngân hàng thương mại. Cho nên hoạt động cạnh tranh sẽ rất gay gắt và cực kỳ khó khăn.
Đối với LienVietBank, chúng tôi đã ý thức sâu sắc được điều đó nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng thị trường kinh doanh tiền tệ tín dụng ở Việt Nam vẫn rộng mở, hoạt động ngân hàng nếu biết đổi mới và tạo ra những dịch vụ phong phú, hoạt động khác biệt thì ngân hàng thương mại vẫn tận dụng được cơ hội phát triển tốt. Bước đầu LienVietBank đã thực hiện được điều đó.
Minh Đức:
Xin anh Hưởng cho biết tình hình thưởng tết trong ngành tài chính năm nay thế nào và LienVietBank nói riêng? Trân trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Đức Hưởng:
Tôi nghĩ rằng các doanh nghiệp nói chung và ngành tài chính nói riêng năm nay sẽ thưởng không nhiều vì các daonh nghiệp đang thực hiện chính sách "thắt lưng buộc bụng" vì nền kinh tế trang trải qua khó khăn nhất định.
Riêng LienVietBank trong kinh doanh năm nay chúng tôi cũng có phần may mắn nên cổ tức chia cho cổ đông 7 tháng năm 2008 đã đạt 9%/ vốn điều lệ 3.300 tỷ. Riêng thưởng cho cán bộ nhân viên chúng tôi thực hiện phương châm "sống bằng lương, giàu bằng thưởng", vì vậy, chắc chắn những cán bộ nhân viên LienVietBank thuộc diện lao động giỏi sẽ được thưởng xứng đáng.
Kính thưa các bạn độc giả thân mến!
Nền kinh tế toàn cầu đang bước vào giai đoạn khó khăn nhất và thậm chí, theo đánh giá của các nhà phân tích kinh tế trên thế giới, mức độ ảnh hưởng của chúng còn tồi tệ hơn cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933.
Trong khi cả thế giới nín thở chờ đợi sự phục hồi thì cuộc khủng hoảng này đang tác động ngày một rõ rệt đến Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng, làm bùng phát lạm phát, làm mất cân bằng thị trường ngoại hối, đẩy hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn do chi phí vốn gia tăng khi Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ.
Mặc dù Chính phủ đã kiểm soát tốt lạm phát trong hai tháng qua, nhưng nền kinh tế cũng đang bộc lộ những dấu hiệu suy giảm. Nhiều doanh nghiệp phải hoạt động cầm chừng, trong bối cảnh nền kinh tế có thể còn tiếp tục gặp nhiều khó khăn.
Nhằm có một cách nhìn tổng thể đối với diễn biến sắp tới của nền kinh tế, lường trước bất ổn để tìm cách vượt qua khó khăn, chúng tôi đã quyết định tổ chức buổi giao lưu trực tuyến “Kinh tế 2009 nhìn từ doanh nghiệp” trên VnEconomy, với sự tham gia của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp lớn đến từ nhiều ngành và lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế.
Chúng tôi trân trọng cám ơn các ông Nguyễn Thành Phương, ông Trần Mạnh Cảnh, ông Lê Tiến Trường, ông Lương Hoài Nam và ông Nguyễn Đức Hưởng.
Trân trọng cám ơn các quý độc giả đã nhiệt tình theo dõi và gửi câu hỏi tham gia giao lưu.
Vì thời gian có hạn, chúng tôi xin tạm dừng buổi giao lưu tại đây. Với những câu hỏi của các bạn mà các vị khách mời chưa kịp trả lời, chúng tôi xin hứa sẽ trở lại vấn đề này vào một thời gian gần nhất.