Góc nhìn về sự rạch ròi giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư từ các vụ sụp đổ ngân hàng trên thế giới gần đây
TS. Hoàng Kim Huyền - ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hà
23/05/2023, 10:00
Chỉ trong một thời gian ngắn, hai ngân hàng lớn ở Mỹ và một ngân hàng Thụy Sỹ chính thức phá sản. Kéo theo đó là cuộc tháo chạy của người gửi tiền khiến các bên liên quan phải nhập cuộc giải quyết hậu quả. Nguyên nhân đổ vỡ và cách thức các quốc gia này xử lý sự cố là những vấn đề Việt Nam cần quan tâm và tham khảo; nhất là vấn đề rạch ròi giữa chức năng ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư....
Rủi ro tương đồng trong khi thể chế giám sát thị trường tài chính ở Việt Nam quá khác biệt so với Mỹ và Châu Âu.
Căn nguyên dẫn đến các vụ sụp đổ ngân hàng ở Mỹ hay Thụy Sỹ không giống như các vụ trước đây. Trường hợp phá sản của Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB), First Republic Bank (FRB) và Credit Suisse có đặc điểm chung là đổ vỡ cả tổ hợp tài chính, trong đó ngân hàng thương mại chỉ là một công ty con trong hệ thống. Ngoài ra, ngân hàng thương mại của cả ba tổ hợp này đều là các công ty con đang hoạt động hiệu quả nhất, mang lại nguồn huy động và lợi nhuận tốt nhất.
NGUYÊN NHÂN DẪN TỚI SỤP ĐỔ
Thứ nhất,không phải là sự sụp đổ của ngân hàng thương mại mà là sự sụp đổ của tổ hợp tài chính nơi đầu tư và đầu cơ với khẩu vị rủi ro cao.
Các khoản đầu tư của Credit Suisse cho thấy tập đoàn này đầu tư nhiều vào các sản phẩm của quỹ phòng hộ, quỹ tương hỗ, quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn lãi suất thấp, huy động dồi dào. Báo cáo tài chính hợp nhất của Credit Suisse năm 2022 cho thấy tổng tài sản là 579,4 tỷ USD tính đến cuối năm 2022, giảm 244,78 tỷ USD, tương đương 30% so với cuối năm 2021. Tiền mặt và các khoản phải trả từ các ngân hàng giảm 105 tỷ USD, tương đương 58%. Tài sản giao dịch giảm 49,83 tỷ USD, tương đương mức giảm 41%, chủ yếu phản ánh sự sụt giảm của chứng khoán vốn, chứng khoán nợ và các công cụ phái sinh.
Cấu trúc huy động và cho vay cho thấy tổ hợp tài chính này huy động ngắn hạn (bởi ngân hàng thương mại) và đầu tư, cho vay dài hạn (trong danh mục đầu tư của ngân hàng thương mại và các công ty đầu tư trong tổ hợp).
Các lớp tài sản đầu tư như trái phiếu chính phủ Mỹ, chứng khoán nợ (như MBS, trái phiếu doanh nghiệp...), chứng khoán vốn, công cụ phái sinh, đều là các lớp tài sản chịu tác động mạnh bởi chính sách tiền tệ thắt chặt khi lãi suất tăng cao.
Nếu rủi ro tập trung do đầu tư và tài sản dài hạn nhạy cảm với lãi suất khiến ba tổ hợp ngân hàng sụp đổ thì tình trạng đầu tư dài hạn, rủi ro tập trung quá cao ở một số tổ hợp ngân hàng Việt Nam khá tương đồng. Theo nhiều cơ quan truyền thông đã phân tích, một số ngân hàng thương mại hiện có tỷ lệ cho vay bất động sản/tổng dư nợ lên tới 50-60%, hoặc cho vay bất động sản/tổng tài sản tương đương 50% - một con số tương tự SVB khi đầu tư vào MBS (là nợ bất động sản) và trái phiếu doanh nghiệp Hoa Kỳ.
Thứ hai, các lớp tài sản đầu tư có rủi ro tăng trưởng quá mức khi lãi suất thấp, lại sụt giảm giá trị quá nhanh khi lãi suất chính sách tăng mạnh.
Trái phiếu chính phủ Mỹ, chứng khoán nợ và các công cụ phái sinh (trường hợp của Credit Suisse) đều chịu rủi ro lớn khi chính sách lãi suất của các ngân hàng trung ương đảo chiều. Việc tăng lãi suất khiến lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng, chứng khoán nợ và công cụ phái sinh tăng mạnh. Việc này khiến các định chế nắm giữ tài sản như vậy sẽ chịu lỗ khi buộc phải bán tài sản để đáp ứng thanh khoản.
Thứ ba,không có ghi nhận lỗ theo giá thị trường kịp thời trên bảng cân đối kế toán của tập đoàn tài chính đổ vỡ.
Trong trường hợp của SVB và FRB, khối tài sản của các định chế này đã tăng gấp đôi sau 2 năm đại dịch, khi tiền lãi suất thấp tràn ngập thị trường do chính sách nới lỏng tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và các ngân hàng trung ương khắp toàn cầu. Với Credit Suisse, tài sản cũng mở rộng thêm 20% trong 12 tháng đầu tiên của đại dịch. Huy động tiền lãi suất thấp, các định chế lại có sẵn công cụ đầu tư (là các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư và ngân hàng đầu tư), dòng tiền đã đổ về đầu tư tài sản dài hạn như trái phiếu doanh nghiệp Hoa Kỳ, chứng khoán hóa khoản vay có tài sản đảm bảo (MBS), thậm chí còn cả đầu cơ trên thị trường phái sinh như Credit Suisse mà không phải là dùng thị trường phái sinh để bảo hiểm cho sự mất giá của tài sản.
Các tài sản đầu tư dài hạn từ dòng tiền ngắn hạn này nhanh chóng mất giá, ghi nhận lỗ từ năm 2022 khi lợi suất tăng với trái phiếu chính phủ Mỹ, chứng khoán nợ, chứng khoán vốn và công cụ phái sinh. Tuy nhiên, do hạch toán kế toán không ghi nhận kịp thời giá trị thị trường đã khiến nhà đầu tư không nhận diện được rủi ro suy giảm tài sản kịp thời. Điều này khiến các chỉ số an toàn tài chính của các định chế vẫn nằm trong khuôn khổ của cơ quan quản lý.
Thứ tư,rủi ro mất thanh khoản do chênh lệch kỳ hạn khi huy động ngắn hạn nhưng đầu tư quá mức vào tài sản tài chính dài hạn.
Trường hợp của SVB cho thấy huy động chủ yếu là không kỳ hạn hoặc kỳ hạn dưới 12 tháng, nhưng đầu tư của định chế này lại là các khoản đầu tư vào quỹ dài hạn, vào các sản phẩm tài chính dài hạn; 51% tổng tài sản là đầu tư tài chính dài hạn, có rủi ro cao với lãi suất chính sách của Fed (8% tổng tài sản đầu tư vào trái phiếu chính phủ Mỹ, 43% tổng tài sản đầu tư vào MBS).
Từ bài học quốc tế hiện tại và các sai lầm trong lịch sử cho thấy, Việt Nam cần gỡ bỏ tối đa các xung đột lợi ích đang tồn tại hiện nay. Trường hợp chấp nhận các xung đột lợi ích tồn tại thì cần phải thiết kế một thể chế giám sát tương thích với rủi ro mà xung đột lợi ích có thể gây ra.
Thứ năm, nguyên nhân quan trọng nhất, xung đột lợi ích căn bản đã dẫn tới cả bốn rủi ro ở trên - nguyên nhân của nhiều vụ phá sản ngân hàng trong gần 100 năm qua.
Tìm hiểu nguyên nhân của Đại khủng hoảng tài chính 1929-1933, các nhà nghiên cứu và làm chính sách tin rằng việc để ngân hàng thương mại (những định chế đáng ra chỉ được thu hút tiền gửi và cho vay) được thoải mái phát triển mảng kinh doanh đầu tư trong khi thiếu kiểm soát và giám sát rủi ro là nguyên nhân dẫn tới suy thoái đạo đức ngân hàng, dẫn tới đầu cơ quá mức vào thị trường chứng khoán (do tiền từ bộ phận đầu tư của ngân hàng thương mại đổ vào), dẫn tới rủi ro kỳ hạn khi huy động ngắn hạn lại cho vay dài hạn, chủ yếu là các khoản cho vay vào dự án bất động sản, các tài sản bất động sản và chứng khoán hóa khoản vay mua nhà ở Mỹ...
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 21-2023 phát hành ngày 22-05-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Ninh Bình công khai 83 doanh nghiệp nợ thuế hơn 835 tỷ đồng
Thuế tỉnh Ninh Bình vừa công bố danh sách 83 doanh nghiệp nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách tính đến ngày 30/6/2025, với tổng số tiền hơn 835,7 tỷ đồng. Trong đó, 10 doanh nghiệp lớn chiếm tới trên 93% tổng số nợ.
Đà Nẵng lập Hội đồng tư vấn, sẵn sàng vận hành Trung tâm tài chính quốc tế
Ủy ban Nhân dân Thành phố Đà Nẵng vừa công bố quyết định thành lập Hội đồng Tư vấn Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng.
Lý do thu ngân sách từ sử dụng đất của Quảng Trị tăng gần 60%
Lũy kế đến hết tháng 7/2025, số thu ngân sách nhà nước từ sử dụng đất trên địa bàn Quảng Trị đạt hơn 2.760 tỷ đồng, bằng 93,6% dự toán trung ương giao và 75% dự toán tỉnh giao, tăng 59,9% so với cùng kỳ.
Vì sao chính sách thuế không đổi nhưng số thuế phải nộp lại tăng thêm?
Theo chuyên gia, nguyên nhân khiến số thuế phải nộp tăng lên không phải do Nhà nước thay đổi thuế suất mà là xuất phát từ sự thay đổi từ phương thức quản lý thuế khoán sang kê khai, khiến doanh thu thực tế của hộ kinh doanh được phản ánh chính xác hơn…
Thị trường giao dịch hàng hóa Việt Nam 2024: Năm của sự bứt phá và phát triển chuyên nghiệp
Ngày 22/8, Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV) đã long trọng tổ chức Lễ Vinh danh Thành viên xuất sắc năm 2024, sự kiện có ý nghĩa đặc biệt khi diễn ra ngay trước thềm kỷ niệm 15 năm thành lập MXV (2010-2025).
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: