Kích cầu: Cẩn thận kẻo “kích” nhầm chỗ!
Cần lưu ý đến kinh nghiệm, cả của thế giới và của chính Việt Nam: kích cầu không dễ thành công!
Có mặt tại hội thảo "Kịch bản kinh tế Việt Nam 2009" do Thời báo Kinh tế Việt Nam và VnEconomy tổ chức tại Tp.HCM sáng nay (22/12), PGS.TS Trần Đình Thiên - quyền Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam - đã đưa ra những ý kiến đáng chú ý về gói giải pháp kích cầu mà Chính phủ đang chuẩn bị.
VnEconomy xin giới thiệu nội dung chính phần phát biểu của ông tại hội thảo. Tựa đề và các tít nhỏ do tòa soạn đặt.
Trong bối cảnh nền kinh tế suy giảm, việc Chính phủ đặt vấn đề chuẩn bị những gói giải pháp kích cầu là cần thiết.
Đã đến lúc không nên chần chừ để gây chậm trễ. Không thể nói ta đang ưu tiên chống lạm phát nên không được nới lỏng chính sách tiền tệ, không được phép “kích cầu”. Tình hình kinh tế thế giới đã và đang xoay chuyển rất nhanh theo hướng gia tăng tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Do vậy, tư duy chính sách cần chuyển hướng kịp thời.
Đó là chưa kể đến hai tình huống: một là quá trình ra quyết định và triển khai hành động ở ta thường là “thong thả”; hai là không có biện pháp nào, dù “tốc hành” đến đâu, lại có thể phát huy tác dụng tức thời. Cộng hưởng cả hai cái “trễ” đó, kết cục có thể là tai họa.
Một tỷ USD mà Chính phủ dành để kích cầu (hiện Chính phủ đang tính đến gói “kích cầu” 6 tỷ USD), trong điều kiện nền kinh tế đang bị suy yếu và gặp nhiều khó khăn như hiện nay, có lẽ là không nhiều. Song nhìn vào thực trạng và triển vọng ngân sách năm 2009, một tỷ USD cũng đã là một sự cố gắng lớn.
Mặt khác, cần lưu ý đến kinh nghiệm, cả của thế giới và của chính Việt Nam: kích cầu không dễ thành công! Thậm chí, trong nhiều trường hợp, càng bơm nhiều tiền kích cầu càng bị thiệt hại. Mấu chốt vấn đề là phải tính toán thật kỹ kích vào đâu, cho ai, theo cơ chế nào.
Tuyệt đối tránh xin - cho
Hiện nay, mục tiêu kích cầu là chống suy thoái, duy trì tăng trưởng và tạo việc làm. Muốn vậy, các dự án được ưu tiên hưởng phần kích cầu của Chính phủ phải bảo đảm ba điều kiện.
Một là giúp tháo gỡ nhanh các nút thắt tăng trưởng gây ách tắc lâu nay – ví dụ như cảng biển, cầu đường, năng lượng..., giúp cho hoạt động của các doanh nghiệp thông thoáng, tăng tốc vận hành, tiết kiệm chi phí. Với những dự án “trọng điểm” bị “ách tắc”, cần kích cầu để hoàn thành sớm. Trong số những dự án này, có thể có những dự án đang “có vấn đề” cần xử lý, song trước mắt cần ưu tiên kích cầu để giải tỏa, “vấn đề” tạm gác lại xử lý sau.
Hai là có sức lan toả mạnh. Định hướng ưu tiên là những dự án thu hút nhiều đầu vào, tạo nhiều việc làm. Thông thường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng tốt yêu cầu này. Việc kích vào nhóm doanh nghiệp này không phải là “làm từ thiện” cho những doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn hơn. Điều quan trọng là nó nhằm đúng mục tiêu đại cục của công cuộc kích cầu.
Ba là gỡ khó cho xuất khẩu. Ở nước ta, hoạt động xuất khẩu gắn nhiều với nông dân, với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động (dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ). Kích vào đây một mặt để giữ một động lực tăng trưởng mạnh của nền kinh tế, giảm nguy cơ thâm hụt thương mại đang có khả năng tăng lên; mặt khác, giúp đông đảo người lao động thuộc nhóm thu nhập thấp, dễ bị tổn thương – và thực tế họ đang bị tổn thương nặng nề sau cơn lạm phát kéo dài và tác động suy thoái của kinh tế thế giới – duy trì việc làm, thu nhập và đời sống, đồng thời, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Ba lập luận trên không định hướng kích cầu theo kiểu phân biệt đối xử - chỉ ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước hay cho những doanh nghiệp “chạy” giỏi. Nó đòi hỏi phải tính toán cẩn thận, trên lợi ích đại cục để phân bổ vốn kích cầu đúng những địa chỉ cần ưu tiên.
Phải tuyệt đối tránh kích cầu thông qua cơ chế xin - cho. Lịch sử kích cầu năm 1998-1999 còn nóng hổi: do mang tính vừa chia bình quân, vừa theo cơ chế xin - cho nên hiệu quả không lớn, để lại hậu quả cơ chế nặng nề.
Giảm, giãn thuế: Cân nhắc để đúng mục tiêu
Về chủ trương giảm, giãn thuế cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong quý 4/2008 và năm 2009, cũng cần có những tính toán cụ thể. Thuế là tiền của dân. Năm 2009, nguồn thu ngân sách được dự báo là sẽ ít thuận lợi hơn nhiều so với năm 2008. Vì thế, càng phải cân nhắc khi giảm, giãn thuế - giảm loại nào, bao nhiêu, cho ai, bao lâu?
Giảm, giãn thuế không đúng đối tượng (ngành, doanh nghiệp) cần “kích” thì có khi ngân sách nhà nước thất thu mà mục tiêu kích cầu lại không đạt được. Hoặc giảm không đủ “độ” thì sức kích sẽ yếu. Nếu thuế giảm không đủ “độ” thì hành vi giảm thuế chỉ có ý nghĩa mang “quà” Chính phủ “tặng” doanh nghiệp mà không thể chuyển thành quá trình giảm giá thực tế trên thị trường để đông đảo người dân cũng được hưởng lợi khi mua hàng.
Tất nhiên, giảm thuế sẽ giúp doanh nghiệp bớt khó khăn, kích thích doanh nghiệp tăng sản xuất. Nhưng bấy nhiêu đó chưa chắc đã giúp giảm giá hàng hóa trên thị trường. Trong khi đó, hoạt động kích cầu có một mục tiêu là làm cho thị trường sôi động thêm nhờ giá cả giảm xuống.
Sức cầu của thị trường hiện đang giảm mạnh; đời sống của người lao động gặp khó khăn. Những doanh nghiệp không được “kích cầu” hỗ trợ cũng đang gay go. Làm sao việc giảm thuế phải nhằm vào đúng chỗ và đủ “độ” để tạo ra sự lan tỏa công bằng trong phân phối lợi ích. Khi đó, hiệu quả kích cầu sẽ tăng.
Còn nếu không, việc giảm, giãn thuế dễ trở thành chủ trương chủ yếu phục vụ cho lợi ích nhóm.
Không cẩn thận, sẽ “kích cầu” hàng Trung Quốc
Một điểm khác cần hết sức lưu ý là xuất khẩu. Kinh tế thế giới suy thoái bắt đầu từ Mỹ, lan sang Tây Âu và Nhật Bản. Đây là những thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam. Trong khi đó, trong nhập khẩu, chúng ta lại chủ yếu nhập siêu từ Trung Quốc.
Khi tất cả các thị trường xuất khẩu cạnh tranh chính của ta và Trung Quốc đều giảm cầu thì xu hướng hàng Trung Quốc tràn vào thị trường Việt Nam sẽ gia tăng mạnh.
Hiện nay, điều đó đang diễn ra. Đây là áp lực ghê gớm với sản xuất trong nước. Hàng Việt Nam nói chung có sức cạnh tranh kém hàng Trung Quốc. Kích cầu của ta trong điều kiện đó là vô cùng khó. Xuất hiện một khả năng: nếu không có định hướng và giải pháp tốt thì đối tượng được ưu đãi “kích cầu” chủ yếu sẽ chính là hàng Trung Quốc.
Điều này đã từng xẩy ra cách đây 10 năm: trong những năm 1998-1999, khi chúng ta bơm tiền “kích cầu” thì lượng xe máy Trung Quốc tiêu thụ ở Việt Nam tăng lên gấp 3 lần, từ khoảng 500-600 ngàn chiếc/năm tăng lên đến 1,8-2 triệu chiếc/năm.
Xử lý vấn đề này rất không dễ dàng. Về cơ bản, đây là bài toán thị trường, phải được giải chủ yếu theo nguyên lý thị trường. Một khi sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn yếu, ít có khả năng cải thiện nhanh thì sứ mệnh “giảm nhập siêu” một phần đáng kể được trao cho các công cụ hành chính - kỹ thuật, ví dụ hàng rào thuế quan, hàng rào kỹ thuật hay các đội chống buôn lậu.
Song sử dụng có hiệu quả những công cụ này là không dễ, khó có hiệu quả cao và cũng cần thời gian để chuẩn bị cơ chế, lực lượng. Không ráo riết chuẩn bị để triển khai thì nguy cơ và hậu quả sẽ càng nặng nề.
Tư duy chính sách "mềm" để tính cuộc chơi dài
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề đặt ra với chúng ta là phải tính đến các biến số tác động tiêu cực, càng đầy đủ càng tốt, để có cách phòng ngừa nghiêm túc. Không thể chỉ nói đến mọi chuyện với tinh thần lạc quan và nhằm mục tiêu cổ động là chính.
Khi kinh tế thế giới gặp khó khăn thì chúng ta càng gặp nhiều khó khăn hơn. Đó là một thực tế không được phép “trừu tượng hóa”.
Điều may mắn đối với chúng ta là trong vài tháng gần đây, đà ổn định vĩ mô đã được khôi phục lại. Điều này sẽ làm cho tác động của cuộc khủng hoảng ít nhiều đỡ đi.
Điểm tiếp theo tôi nghĩ cũng rất quan trọng là Nhà nước, sau bài học kinh nghiệm về chống lạm phát (ít dùng hành chính hơn, kịp thời thay đổi mục tiêu ưu tiên, chọn giải pháp bài bản hơn, phối hợp hành động tốt hơn...) đã trở nên linh hoạt và bài bản hơn trong phản ứng chính sách.
Năm 2008, tăng trưởng kinh tế chỉ hơn 6,5%. Tuy nhiên, không có gì là quá buồn khi tăng trưởng tăng chậm lại. Thực ra trong điều kiện của năm 2008, tăng trưởng ở mức trên cũng đã là rất tốt. Tư duy chính sách cũng cần mềm hơn, nương theo hoàn cảnh để tính đến cuộc chơi dài hơn vì nó giúp chúng ta không bị rối loạn, bất ổn. Và điều quan trọng trong tăng trưởng là giữ được việc làm cho người lao động. Đó mới là điều quan trọng, là gốc cho ổn định xã hội.
Chỉ xin lưu ý một ví dụ: Tổng thống Hoa Kỳ mới đắc cử Obama, mặc dù chưa nhậm chức, khi đối mặt với khủng hoảng và suy thoái, cam kết đầu tiên ông đưa ra là bảo đảm việc làm, coi đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Giữ được việc làm cũng sẽ góp phần tạo niềm tin cho xã hội và nói lên bản chất của chế độ kinh tế mà chúng ta định hướng phát triển tới.
Với những lý lẽ như vậy, có cơ sở để nêu ý kiến rằng trong năm 2009, Việt Nam không nên quá chú trọng vào tốc độ tăng trưởng cao, dù chỉ là 6-6,5%. Nên coi đây quãng thời gian chứa đựng cơ hội lớn để đẩy mạnh cải cách, tạo lập các cơ sở thể chế bền vững cho quá trình tăng trưởng lâu dài. Đó chính là tầm nhìn cho một cuộc chơi lớn.
VnEconomy xin giới thiệu nội dung chính phần phát biểu của ông tại hội thảo. Tựa đề và các tít nhỏ do tòa soạn đặt.
Trong bối cảnh nền kinh tế suy giảm, việc Chính phủ đặt vấn đề chuẩn bị những gói giải pháp kích cầu là cần thiết.
Đã đến lúc không nên chần chừ để gây chậm trễ. Không thể nói ta đang ưu tiên chống lạm phát nên không được nới lỏng chính sách tiền tệ, không được phép “kích cầu”. Tình hình kinh tế thế giới đã và đang xoay chuyển rất nhanh theo hướng gia tăng tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Do vậy, tư duy chính sách cần chuyển hướng kịp thời.
Đó là chưa kể đến hai tình huống: một là quá trình ra quyết định và triển khai hành động ở ta thường là “thong thả”; hai là không có biện pháp nào, dù “tốc hành” đến đâu, lại có thể phát huy tác dụng tức thời. Cộng hưởng cả hai cái “trễ” đó, kết cục có thể là tai họa.
Một tỷ USD mà Chính phủ dành để kích cầu (hiện Chính phủ đang tính đến gói “kích cầu” 6 tỷ USD), trong điều kiện nền kinh tế đang bị suy yếu và gặp nhiều khó khăn như hiện nay, có lẽ là không nhiều. Song nhìn vào thực trạng và triển vọng ngân sách năm 2009, một tỷ USD cũng đã là một sự cố gắng lớn.
Mặt khác, cần lưu ý đến kinh nghiệm, cả của thế giới và của chính Việt Nam: kích cầu không dễ thành công! Thậm chí, trong nhiều trường hợp, càng bơm nhiều tiền kích cầu càng bị thiệt hại. Mấu chốt vấn đề là phải tính toán thật kỹ kích vào đâu, cho ai, theo cơ chế nào.
Tuyệt đối tránh xin - cho
Hiện nay, mục tiêu kích cầu là chống suy thoái, duy trì tăng trưởng và tạo việc làm. Muốn vậy, các dự án được ưu tiên hưởng phần kích cầu của Chính phủ phải bảo đảm ba điều kiện.
Một là giúp tháo gỡ nhanh các nút thắt tăng trưởng gây ách tắc lâu nay – ví dụ như cảng biển, cầu đường, năng lượng..., giúp cho hoạt động của các doanh nghiệp thông thoáng, tăng tốc vận hành, tiết kiệm chi phí. Với những dự án “trọng điểm” bị “ách tắc”, cần kích cầu để hoàn thành sớm. Trong số những dự án này, có thể có những dự án đang “có vấn đề” cần xử lý, song trước mắt cần ưu tiên kích cầu để giải tỏa, “vấn đề” tạm gác lại xử lý sau.
Hai là có sức lan toả mạnh. Định hướng ưu tiên là những dự án thu hút nhiều đầu vào, tạo nhiều việc làm. Thông thường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng tốt yêu cầu này. Việc kích vào nhóm doanh nghiệp này không phải là “làm từ thiện” cho những doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn hơn. Điều quan trọng là nó nhằm đúng mục tiêu đại cục của công cuộc kích cầu.
Ba là gỡ khó cho xuất khẩu. Ở nước ta, hoạt động xuất khẩu gắn nhiều với nông dân, với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động (dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ). Kích vào đây một mặt để giữ một động lực tăng trưởng mạnh của nền kinh tế, giảm nguy cơ thâm hụt thương mại đang có khả năng tăng lên; mặt khác, giúp đông đảo người lao động thuộc nhóm thu nhập thấp, dễ bị tổn thương – và thực tế họ đang bị tổn thương nặng nề sau cơn lạm phát kéo dài và tác động suy thoái của kinh tế thế giới – duy trì việc làm, thu nhập và đời sống, đồng thời, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Ba lập luận trên không định hướng kích cầu theo kiểu phân biệt đối xử - chỉ ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước hay cho những doanh nghiệp “chạy” giỏi. Nó đòi hỏi phải tính toán cẩn thận, trên lợi ích đại cục để phân bổ vốn kích cầu đúng những địa chỉ cần ưu tiên.
Phải tuyệt đối tránh kích cầu thông qua cơ chế xin - cho. Lịch sử kích cầu năm 1998-1999 còn nóng hổi: do mang tính vừa chia bình quân, vừa theo cơ chế xin - cho nên hiệu quả không lớn, để lại hậu quả cơ chế nặng nề.
Giảm, giãn thuế: Cân nhắc để đúng mục tiêu
Về chủ trương giảm, giãn thuế cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong quý 4/2008 và năm 2009, cũng cần có những tính toán cụ thể. Thuế là tiền của dân. Năm 2009, nguồn thu ngân sách được dự báo là sẽ ít thuận lợi hơn nhiều so với năm 2008. Vì thế, càng phải cân nhắc khi giảm, giãn thuế - giảm loại nào, bao nhiêu, cho ai, bao lâu?
Giảm, giãn thuế không đúng đối tượng (ngành, doanh nghiệp) cần “kích” thì có khi ngân sách nhà nước thất thu mà mục tiêu kích cầu lại không đạt được. Hoặc giảm không đủ “độ” thì sức kích sẽ yếu. Nếu thuế giảm không đủ “độ” thì hành vi giảm thuế chỉ có ý nghĩa mang “quà” Chính phủ “tặng” doanh nghiệp mà không thể chuyển thành quá trình giảm giá thực tế trên thị trường để đông đảo người dân cũng được hưởng lợi khi mua hàng.
Tất nhiên, giảm thuế sẽ giúp doanh nghiệp bớt khó khăn, kích thích doanh nghiệp tăng sản xuất. Nhưng bấy nhiêu đó chưa chắc đã giúp giảm giá hàng hóa trên thị trường. Trong khi đó, hoạt động kích cầu có một mục tiêu là làm cho thị trường sôi động thêm nhờ giá cả giảm xuống.
Sức cầu của thị trường hiện đang giảm mạnh; đời sống của người lao động gặp khó khăn. Những doanh nghiệp không được “kích cầu” hỗ trợ cũng đang gay go. Làm sao việc giảm thuế phải nhằm vào đúng chỗ và đủ “độ” để tạo ra sự lan tỏa công bằng trong phân phối lợi ích. Khi đó, hiệu quả kích cầu sẽ tăng.
Còn nếu không, việc giảm, giãn thuế dễ trở thành chủ trương chủ yếu phục vụ cho lợi ích nhóm.
Không cẩn thận, sẽ “kích cầu” hàng Trung Quốc
Một điểm khác cần hết sức lưu ý là xuất khẩu. Kinh tế thế giới suy thoái bắt đầu từ Mỹ, lan sang Tây Âu và Nhật Bản. Đây là những thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam. Trong khi đó, trong nhập khẩu, chúng ta lại chủ yếu nhập siêu từ Trung Quốc.
Khi tất cả các thị trường xuất khẩu cạnh tranh chính của ta và Trung Quốc đều giảm cầu thì xu hướng hàng Trung Quốc tràn vào thị trường Việt Nam sẽ gia tăng mạnh.
Hiện nay, điều đó đang diễn ra. Đây là áp lực ghê gớm với sản xuất trong nước. Hàng Việt Nam nói chung có sức cạnh tranh kém hàng Trung Quốc. Kích cầu của ta trong điều kiện đó là vô cùng khó. Xuất hiện một khả năng: nếu không có định hướng và giải pháp tốt thì đối tượng được ưu đãi “kích cầu” chủ yếu sẽ chính là hàng Trung Quốc.
Điều này đã từng xẩy ra cách đây 10 năm: trong những năm 1998-1999, khi chúng ta bơm tiền “kích cầu” thì lượng xe máy Trung Quốc tiêu thụ ở Việt Nam tăng lên gấp 3 lần, từ khoảng 500-600 ngàn chiếc/năm tăng lên đến 1,8-2 triệu chiếc/năm.
Xử lý vấn đề này rất không dễ dàng. Về cơ bản, đây là bài toán thị trường, phải được giải chủ yếu theo nguyên lý thị trường. Một khi sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn yếu, ít có khả năng cải thiện nhanh thì sứ mệnh “giảm nhập siêu” một phần đáng kể được trao cho các công cụ hành chính - kỹ thuật, ví dụ hàng rào thuế quan, hàng rào kỹ thuật hay các đội chống buôn lậu.
Song sử dụng có hiệu quả những công cụ này là không dễ, khó có hiệu quả cao và cũng cần thời gian để chuẩn bị cơ chế, lực lượng. Không ráo riết chuẩn bị để triển khai thì nguy cơ và hậu quả sẽ càng nặng nề.
Tư duy chính sách "mềm" để tính cuộc chơi dài
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề đặt ra với chúng ta là phải tính đến các biến số tác động tiêu cực, càng đầy đủ càng tốt, để có cách phòng ngừa nghiêm túc. Không thể chỉ nói đến mọi chuyện với tinh thần lạc quan và nhằm mục tiêu cổ động là chính.
Khi kinh tế thế giới gặp khó khăn thì chúng ta càng gặp nhiều khó khăn hơn. Đó là một thực tế không được phép “trừu tượng hóa”.
Điều may mắn đối với chúng ta là trong vài tháng gần đây, đà ổn định vĩ mô đã được khôi phục lại. Điều này sẽ làm cho tác động của cuộc khủng hoảng ít nhiều đỡ đi.
Điểm tiếp theo tôi nghĩ cũng rất quan trọng là Nhà nước, sau bài học kinh nghiệm về chống lạm phát (ít dùng hành chính hơn, kịp thời thay đổi mục tiêu ưu tiên, chọn giải pháp bài bản hơn, phối hợp hành động tốt hơn...) đã trở nên linh hoạt và bài bản hơn trong phản ứng chính sách.
Năm 2008, tăng trưởng kinh tế chỉ hơn 6,5%. Tuy nhiên, không có gì là quá buồn khi tăng trưởng tăng chậm lại. Thực ra trong điều kiện của năm 2008, tăng trưởng ở mức trên cũng đã là rất tốt. Tư duy chính sách cũng cần mềm hơn, nương theo hoàn cảnh để tính đến cuộc chơi dài hơn vì nó giúp chúng ta không bị rối loạn, bất ổn. Và điều quan trọng trong tăng trưởng là giữ được việc làm cho người lao động. Đó mới là điều quan trọng, là gốc cho ổn định xã hội.
Chỉ xin lưu ý một ví dụ: Tổng thống Hoa Kỳ mới đắc cử Obama, mặc dù chưa nhậm chức, khi đối mặt với khủng hoảng và suy thoái, cam kết đầu tiên ông đưa ra là bảo đảm việc làm, coi đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Giữ được việc làm cũng sẽ góp phần tạo niềm tin cho xã hội và nói lên bản chất của chế độ kinh tế mà chúng ta định hướng phát triển tới.
Với những lý lẽ như vậy, có cơ sở để nêu ý kiến rằng trong năm 2009, Việt Nam không nên quá chú trọng vào tốc độ tăng trưởng cao, dù chỉ là 6-6,5%. Nên coi đây quãng thời gian chứa đựng cơ hội lớn để đẩy mạnh cải cách, tạo lập các cơ sở thể chế bền vững cho quá trình tăng trưởng lâu dài. Đó chính là tầm nhìn cho một cuộc chơi lớn.