Người bị suy giảm khả năng lao động được nghỉ hưu sớm
Năm 2024, độ tuổi nghỉ hưu của người lao động nam sẽ là 61 tuổi, lao động nữ sẽ là 56 tuổi 4 tháng. Tuy nhiên, với trường hợp người lao động bị suy giảm khả năng lao động, sẽ được nghỉ hưu trước độ tuổi này…
Bộ Luật Lao động 2019 quy định, kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với lao động nam, và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ. Sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam và 4 tháng đối với lao động nữ.
Lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu mỗi năm như trên chỉ áp dụng cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028, và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết, người lao động có thể nghỉ hưu trước tuổi quy định nếu bị suy giảm khả năng lao động. Trường hợp này được quy định tại Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, được sửa đổi tại Điều 219 Bộ luật Lao động 2019.
Theo đó, người lao động khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên, được hưởng lương hưu sớm hơn tuổi quy định tối đa đến 5 tuổi, nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến dưới 81%.
Người lao động khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên, được hưởng lương hưu sớm hơn tuổi quy định tối đa đến 10 tuổi, nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Để biết được tình trạng suy giảm khả năng lao động, người lao động có thể tới các cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền để xác định tình trạng suy giảm của mình, từ đó mới xác định được có đủ điều kiện để về hưu sớm hay không. Trường hợp đáp ứng được các yêu cầu của pháp luật quy định nêu trên, thì sẽ được nghỉ hưu sớm.
Theo quy định tại Điều 54 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, được sửa đổi bởi Điểm a Khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019, các trường hợp nghỉ hưu sớm không bị trừ lương hưu gồm: Người lao động có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021.
Người lao động có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, và thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành, hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021.
Người lao động có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động, quy định tại Khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019. Trong đó, có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 54 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, được sửa đổi bởi Điểm a Khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019.
Người bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Người lao động trong trường hợp này sẽ không bị trừ tỷ lệ lương hưu theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 54 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, được sửa đổi bởi Điểm a Khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019.
Các trường hợp cán bộ, công chức, viên chức nghỉ hưu do tinh giản biên chế quy định tại Nghị định số 29/2023/NĐ-CP quy định về tinh giản biên chế.
Nếu người lao động nghỉ hưu trước tuổi, nhưng không thuộc các trường hợp trên thì sẽ bị giảm trừ % lương hưu. Hiện tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa là 75%. Mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 2%. Trường hợp tuổi nghỉ hưu có thời gian lẻ đến đủ 6 tháng thì mức giảm là 1%.