Quỹ ngoại khoe thắng lớn nhờ ôm toàn cổ phiếu penny, midcap
Hiệu suất của Lumen Vietnam Fund tăng trưởng do việc phân bổ chiến lược vào các cổ phiếu mid-cap và small-cap và việc lựa chọn cổ phiếu thành công trong các ngành khác nhau...
Lumen Vietnam Fund (LVF) vừa báo cáo hiệu suất tăng 4,49% trong nửa đầu tháng 5 đưa mức tăng từ đầu năm 2024 lên 6,73%. Mức tăng trưởng này vượt trội hiệu suất VNAS tăng 3,7% trong tháng và tăng 7,2% từ đầu năm đến nay.
Theo quỹ, hiệu suất của Lumen Vietnam Fund tăng trưởng do việc phân bổ chiến lược vào các cổ phiếu mid-cap và small-cap và việc lựa chọn cổ phiếu thành công trong các ngành khác nhau, bao gồm Hàng tiêu dùng không thiết yếu, Công nghiệp, Năng lượng, Công nghệ thông tin, Nguyên vật liệu và Hàng tiêu dùng thiết yếu.
Trong đó, ngành Hàng tiêu dùng không thiết yếu dẫn đầu về hiệu suất của quỹ với mức tăng ấn tượng 11,5%. Ngành này đã được hưởng lợi từ quá trình tái cơ cấu liên tục, thu hút thêm sự quan tâm của nhà đầu tư và cho phép các doanh nghiệp khai thác giá trị của tài sản của họ, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng trong tương lai.
Tiếp theo sau ngành Hàng tiêu dùng không thiết yếu, ngành Năng lượng đạt được mức tăng 10,2%, đáng kể hơn nhiều so với mức tăng 3,9% của VNAS. Điều này được hỗ trợ bởi các sáng kiến chính phủ mới và việc khởi động các dự án năng lượng mới đã giúp thúc đẩy đà tăng trưởng của ngành, cùng với những kết quả quý tích cực được công bố vào tháng 4.
Ngành Công nghệ thông tin vẫn duy trì được hiệu suất ấn tượng trong nửa đầu tháng 5, đạt mức tăng 8,4%, góp phần vào mức tăng đáng kể 33,1% từ đầu năm. Triển vọng tích cực của ngành vẫn mạnh mẽ cả trong trung hạn và dài hạn, được củng cố bởi các hợp đồng mới được ký kết. Xu hướng tăng trưởng này còn thuyết phục hơn sau khi công bố kết quả kinh doanh trong bốn tháng đầu năm, cho thấy lợi nhuận sau thuế tăng ổn định trên 20%.
Ngành Vật liệu đạt mức tăng 8,8% trong tháng, do sự phục hồi mạnh mẽ trong nhu cầu, cho thấy giai đoạn khó khăn nhất đã qua. Bên cạnh đó, kỳ vọng về các khoản thuế chống bán phá giá đối với thép Trung Quốc cũng đã góp phần vào hiệu suất tốt của các công ty trong phân khúc này.
Ngành Công nghiệp cũng thể hiện tốt, với mức tăng 5,8%. Kết quả quý đã nổi bật nhờ sự phục hồi mạnh mẽ của các công ty hàng không từ mức cơ sở thấp. Sự phục hồi này được kỳ vọng sẽ tiếp tục khi khách du lịch quốc tế ngày càng quay trở lại Việt Nam trong mùa hè, thêm vào đó giá dầu thấp sẽ giúp duy trì chi phí hoạt động giảm.
Cuối cùng, ngành Hàng tiêu dùng thiết yếu ghi nhận mức tăng ổn định 3,8%, góp phần vào sự vượt trội của quỹ. Hiệu suất này được khẳng định bởi các kết quả ổn định từ các công ty trong ngành và các báo cáo quý I tích cực cho thấy tiềm năng tăng trưởng bền vững.
Ngành ngân hàng được quỹ theo dõi báo cáo tăng trưởng lợi nhuận 11% so với cùng kỳ năm trước trong quý I, do tài sản thu nhập ròng cao hơn và tỷ lệ chi phí/thu nhập ổn định (CIR).
Sau mức tăng trưởng quý cao kỷ lục trong quý 4/2023, tăng trưởng tín dụng của ngành ngân hàng trong danh mục của quỹ chỉ ở mức khiêm tốn 0,9% tính từ đầu năm 2024, cao hơn mức trung bình của toàn ngành là 0,3%. Tính theo tháng, các khoản giải ngân tín dụng đã có sự tăng tốc vào tháng 3 so với mức tăng trưởng âm trong hai tháng đầu năm 2024.
Sau khi có cải thiện trong quý 4/2023, nợ xấu (NPL) lại tăng thêm 23 điểm cơ bản so với quý trước, lên 1,9% trong quý I/2024, nhưng vẫn thấp hơn một chút so với mức đỉnh 2,07% trong quý 3/2023. Sự gia tăng NPL này có thể được gán cho tăng trưởng tín dụng chậm và khoanh nợ xấu thấp. Hầu hết các ngân hàng cho rằng sự gia tăng NPL là do khách hàng bán lẻ, ngoại trừ một số ngân hàng như MBB có gia tăng NPL từ các khoản vay doanh nghiệp do tác động của CIC từ các ngân hàng khác.
Tăng trưởng doanh thu mạnh hơn trong các quý tới sẽ giúp các ngân hàng tăng khoanh nợ xấu để kiểm soát tỷ lệ NPL, trong đó nhiều ngân hàng đặt mục tiêu giữ NPL năm 2024 tương đương hoặc thấp hơn mức năm 2023. NPL dự kiến sẽ giảm đáng kể hơn nữa vào năm 2025, với giả định áp lực nợ xấu mới thấp hơn và dự phòng rủi ro tín dụng cao hơn.
Biên lãi thuần (NIM) giảm 10 điểm cơ bản so với quý trước, xuống còn 3,7% do cạnh tranh tăng trưởng tín dụng cũng như nợ xấu tăng lên. Trước xu hướng tăng lãi suất qua đêm, một số ngân hàng đã nâng lãi suất huy động vào cuối tháng 4, hàm ý về chi phí huy động cao hơn và áp lực NIM trong các quý tới. Tuy nhiên, NIM vẫn được dự báo sẽ cải thiện trong các quý tới nhờ nhu cầu tín dụng phục hồi và kỳ vọng NPL giảm.
Đánh giá về triển vọng ngành Ngân hàng, theo quỹ, vào tháng 4/2024, tất cả các ngân hàng trong danh mục theo dõi của VNHAM đã tổ chức thành công các cuộc họp đại hội cổ đông thường niên, trong đó hầu hết các ngân hàng đều đặt mục tiêu lợi nhuận năm 2024 tăng 10%-15%, ngoại trừ VPB (tăng 114% so với năm trước) và LPB (tăng 49,1% so với năm trước).
Quỹ dự báo lợi nhuận ngành ngân hàng sẽ tăng 12-16% so với năm trước vào năm 2024, do tăng trưởng tín dụng 12-14% và cải thiện nhẹ cả NIM và chi phí dự phòng. Lợi nhuận ngành ngân hàng dự kiến sẽ tăng trưởng một chữ số % so với quý trước nhờ tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ hơn và cải thiện NIM, mức tăng trưởng lợi nhuận 15%-20% so với năm trước trong quý II và quý III/2024 do cơ sở so sánh thấp của năm 2023.
Sau Đại hội đồng cổ đông thường niên, các ngân hàng đang xử lý việc chi trả cổ tức (tiền mặt và cổ phiếu) trong quý II/2024, tăng vốn điều lệ hoặc phân phối lại cho cổ đông.
Bên cạnh đó, một số ngân hàng cũng được phê duyệt để huy động vốn nhằm tận dụng các cơ hội tăng trưởng tiềm năng, cũng như chuẩn bị đáp ứng Basel III trong tương lai. Tại thời điểm này, tất cả các ngân hàng trong danh mục theo dõi của VNHAM đều đáp ứng tiêu chuẩn Basel II, trong khi một số ngân hàng đã tuyên bố đạt Basel III nội bộ. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) đạt 11,7% vào cuối năm 2023, với tỷ lệ vốn cấp 1 là 10,8%.