11:10 29/11/2021

Sản xuất công nghiệp tiếp tục khởi sắc, nhiều ngành trọng điểm tăng trưởng cao

Nguyễn Mạnh

Trong 11 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước…

Nhiều ngành có chỉ số sản xuất tăng cao trong 11 tháng năm 2021.
Nhiều ngành có chỉ số sản xuất tăng cao trong 11 tháng năm 2021.

Số liệu do Tổng cục Thống kê công bố sáng 29/11 cho thấy, sản xuất công nghiệp trong tháng 11/2021 tiếp tục khởi sắc khi các địa phương trên cả nước thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19.

Theo đó, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 11/2021 tăng 5,5% so với tháng trước và tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước (cao hơn tốc độ tăng 3% của cùng kỳ năm 2020).

CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO TIẾP TỤC DẪN DẮT TĂNG TRƯỞNG

Ngành chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định vai trò dẫn dắt toàn ngành công nghiệp khi đạt mức tăng trưởng cao nhất với 4,8% (cùng kỳ năm 2020 tăng 4,4%), đóng góp 4,2 điểm phần trăm vào mức tăng chung.

Tiếp đến là ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,8%, đóng góp 0,3 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 6%, làm giảm 1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

Trong 11 tháng qua, chỉ số sản xuất của một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước, gồm: Kim loại tăng 23,4%; xe có động cơ tăng 10,7%; than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 9%; dệt tăng 8,3%; khai thác than cứng và than non tăng 6,9%; trang phục tăng 6,3%; sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 6,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 4,4%.

Tốc độ tăng/giảm chỉ số IIP 11 tháng các năm 2017-2021 của một số ngành công nghiệp trọng điểm.
Tốc độ tăng/giảm chỉ số IIP 11 tháng các năm 2017-2021 của một số ngành công nghiệp trọng điểm.

Ở chiều ngược lại, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp của một số ngành giảm là thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 18,2%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 12,9%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 10,4%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 4,4%; đồ uống giảm 3,9%.

Trong 11 tháng năm 2021, một số sản phẩm công nghiệp chủ lực tăng cao so với cùng kỳ năm trước, gồm: Thép cán tăng 35,4%; linh kiện điện thoại tăng 33,8%; xăng dầu các loại tăng 13,3%; sữa bột tăng 12,6%; sắt, thép thô tăng 10,7%; khí hóa lỏng LPG tăng 10,6%; thức ăn cho gia súc tăng 9,5%; ô tô và giày dép da cùng tăng 9%; phân hỗn hợp NPK tăng 7,5%.

Bên cạnh đó, vẫn có những sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước là tivi các loại giảm 40,3%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 18,4%; đường kính giảm 8,5%; bia các loại giảm 7,8%; dầu mỏ thô khai thác giảm 6,5%; thủy hải sản chế biến và thức ăn cho thủy sản cùng giảm 3,9%.

Trong 11 tháng năm 2021, có 47 địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng và 16 địa phương có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước.

Tốc độ tăng/giảm IIP 11 tháng năm 2021so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương.
Tốc độ tăng/giảm IIP 11 tháng năm 2021so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương.

Về tình hình lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp, báo cáo nêu rõ, tại thời điểm 01/11/2021 tăng 3,3% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,6% so với cùng thời điểm năm trước.

Trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,3% và giảm 2,7%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 2,5% và giảm 4,2%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 4,2% và giảm 1,8%.

Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,4% so với cùng thời điểm tháng trước và không đổi so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 3,6% và giảm 2,8%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí không đổi và tăng 2,7%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,1% và giảm 1,1%.

BẢO ĐẢM ĐỦ NGUYÊN LIỆU CHO PHỤC HỒI SẢN XUẤT

Trong báo cáo mới đây, Bộ Công Thương cho rằng, để ngành công nghiệp sớm “khỏe mạnh” trở lại cần tiếp tục triển khai khẩn trương, quyết liệt, thống nhất từ Trung ương đến địa phương các nội dung hướng dẫn, chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 128/NQ-CP quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” và các hướng dẫn của Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải nhằm bảo đảm tối đa lưu thông hàng hóa, lao động trở lại phục vụ việc phục hồi các hoạt động sản xuất sau dịch bệnh, tránh tình trạng “cát cứ”, không thống nhất gây khó khăn cho việc phục hồi các chuỗi cung ứng về hàng hóa và lao động cho sản xuất.

Đặc biệt, cần bảo đảm cung ứng đầy đủ nguyên vật liệu, năng lượng để đáp ứng yêu cầu phục hồi sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án công nghiệp quan trọng; hỗ trợ tối đa các nhà máy duy trì và khôi phục sản xuất để giữ đơn hàng, chuỗi cung ứng.

Bên cạnh đó, tận dụng lợi thế của các hiệp định thương mại đã và đang thực hiện để thúc đẩy xúc tiến thương mại, phát triển thị trường trong và ngoài nước, đẩy mạnh thương mại điện tử, tăng cường kết nối giữa nhà sản xuất và các nhà phân phối, tiêu thụ.

Trong dài hạn, cần thống nhất nguồn lực từ Trung ương đến địa phương tập trung đầu tư, phát triển các dự án công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp nền tảng, các ngành sản xuất xuất khẩu chủ lực như công nghiệp vật liệu, công nghiệp hỗ trợ, cơ khí, ô tô, dệt may, da - giày, điện - điện tử, chế biến thực phẩm...

Trong đó, tập trung hỗ trợ nâng cao năng lực các doanh nghiệp công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ thông qua các giải pháp hỗ trợ về tín dụng, nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển thị trường; cũng như các ưu đãi về thuế và đất đai theo quy định của pháp luật; xây dựng chính sách thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài các dự án công nghiệp quy mô lớn, có gắn với chuyển giao và làm chủ công nghệ, tận dụng đối đa dòng vốn dịch chuyển trong thời gian tới.

Ngoài ra, tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế, xúc tiến thị trường ngoài nước tận dụng tối đa cơ hội từ các quốc gia có Hiệp định thương mại tự do với Việt Nam để thúc đẩy xuất khẩu các ngành hàng chủ lực, liên kết doanh nghiệp trong nước và các chuỗi sản xuất toàn cầu.