19:00 22/01/2025

VCCI đề xuất chọn lọc một số thương hiệu nông sản có tiềm năng để hỗ trợ xây dựng thương hiệu

Vũ Khuê

Ngành nông nghiệp đã góp rất lớn trong thành tựu xuất khẩu chung của cả nước. Tuy nhiên, sản phẩm nông sản vẫn chưa có đầu ra ổn định, giá trị chưa cao. Một trong các "điểm nghẽn" là do chất lượng không ổn định và chưa có thương hiệu nông sản...

Xuất khẩu nông sản Việt Nam liên tục tăng trưởng từ 2007 đến nay.
Xuất khẩu nông sản Việt Nam liên tục tăng trưởng từ 2007 đến nay.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang lấy ý kiến đóng góp về dự thảo Đề nghị xây dựng Nghị định xây dựng và phát triển nhãn hiệu, thương hiệu nông sản Việt Nam.

CHƯA XÂY DỰNG ĐƯỢC NHIỀU THƯƠNG HIỆU ĐỦ MẠNH

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết trong thành tựu xuất khẩu của cả nước, ngành nông nghiệp đã góp phần rất lớn, là ngành duy nhất liên tục duy trì xuất siêu. 

Năm 2007 khi Việt Nam gia nhập WTO, xuất khẩu nông sản với tổng giá trị đạt 12,6 tỷ USD và liên tục tăng trưởng. Đến năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt trên 53,01 tỷ USD gấp 4,2 lần năm 2007, xuất siêu đạt mức kỷ lục 12,07 tỉ USD, tăng 43,7% so với năm trước, chiếm trên 42,5% xuất siêu cả nước. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt mức cao kỷ lục 62,4 tỷ USD, tăng 18,5% so với năm 2023.

Tuy nhiên, sản phẩm nông sản vẫn chưa có đầu ra ổn định, giá trị chưa cao. Một trong các "điểm nghẽn" là do chất lượng không ổn định và chưa có thương hiệu nông sản.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Việt Nam chưa xây dựng được nhiều nhãn hiệu, thương hiệu đủ mạnh cho các mặt hàng nông sản. Một trong các vấn đề đặt ra là: Chưa chuẩn hóa qui trình sản xuất, chế biến, bao gói, vận chuyển, bảo quản, bày bán đặc thù làm cơ sở định hình và duy trì lâu dài phẩm cấp xác định của sản phẩm theo các tiêu chí nhận diện thương hiệu; chưa có vùng sản xuất tập trung để có nguồn nguyên liệu đủ lớn và ổn định về chất lượng gắn với mã số vùng nuôi trồng, truy xuất nguồn gốc làm cơ sở cung ứng hàng hóa thường xuyên, ổn định về khối lượng, chất lượng cho người tiêu dùng.

Mặt khác, chính sách pháp luật hiện hành về xây dựng và phát triển thương hiệu hiện nay vẫn chung chung, phân tán, chưa phù hợp với đặc thù của sản phẩm nông nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, khó ổn định chất lượng. 

Do đó, việc xây dựng "Nghị định về xây dựng và phát triển nhãn hiệu, thương hiệu nông sản Việt Nam" nhằm quản lý chặt chẽ chất lượng trong sản xuất, chế biến và chứng nhận sản phẩm đạt nhãn hiệu nông sản quốc gia giúp người tiêu dùng an tâm khi sử dụng, đảm bảo sản phẩm an toàn, chất lượng, được chứng nhận và cam kết truy xuất được nguồn gốc, là cơ sở để phát triển thương hiệu quốc gia cho các sản phẩm nông sản.

Đồng thời, đảm bảo thị trường minh bạch, lành mạnh; tăng cường truyền thông quảng bá hình ảnh, nâng cao vị thế trên thị trường quốc tế. Từ đó, góp phần nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nông sản, tăng thu nhập cho nông dân, doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, quy định quy trình để áp dụng trong quản lý, vận hành các nhãn hiệu ngành hàng nông sản đã được đăng ký bảo hộ; là cơ sở pháp lý để đưa ra bộ tiêu chí cho các doanh nghiệp, sản phẩm được sử dụng (mang) nhãn hiệu ngành hàng nông sản.

Tăng cường công tác tư vấn, đào tạo, hợp tác quốc tế về phát triển nhãn hiệu, thương hiệu nông sản Việt Nam, nhất là đăng ký bảo hộ tại các thị trường quốc tế; quy định các cơ chế, chính sách cụ thể, đặc thù đối với xây dựng và phát triển nhãn hiệu, thương hiệu nông sản Việt Nam.

CẦN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CỤ THỂ

Góp ý về dự thảo, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) ủng hộ các chính sách hỗ trợ mà Dự thảo đang đề xuất để hỗ trợ doanh nghiệp có nguồn kinh phí ban đầu trong việc thực hiện bảo hộ nhãn hiệu. 

Tuy nhiên, theo VCCI, bảo hộ nhãn hiệu chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể quá trình phát triển thương hiệu nông sản. Để phát triển thương hiệu nông sản đòi hỏi các yếu tố: Sản phẩm đạt yêu cầu về số lượng và chất lượng; khả năng thâm nhập vào các kênh phân phối trong nước và nước ngoài; phát triển bộ nhận diện thương hiệu và câu chuyện thương hiệu phù hợp.

"Việc bảo hộ thương hiệu chỉ cần thiết và hiệu quả khi thương hiệu đã mang lại giá trị kinh tế và việc bảo hộ nhằm bảo vệ các giá trị kinh tế đó", VCCI nhấn mạnh.

VCCI cho rằng các nguyên nhân tương tự dẫn đến thương hiệu nông sản Việt Nam chưa phát triển cũng được nhận diện gồm: chưa có vùng sản xuất tập trung để có nguyên liệu đủ lớn và ổn định về chất lượng; chưa chuẩn hoá quy trình sản xuất, chế biến, bao gói, vận chuyển, bảo quản; chưa xây dựng quảng bá, truyền thông. 

Do đó, trong phạm vi Dự thảo này, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc một số chính sách hỗ trợ cụ thể.

Đó là chính sách hỗ trợ chi phí cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hiệp hội chuẩn hoá quy trình sản xuất, chế biến. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã xây dựng, phát triển bộ nhận diện thương hiệu. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia các khoá học nâng cao năng lực xây dựng thương hiệu. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia các khoá học nâng cao năng lực kinh doanh, quảng cáo trên thương mại điện tử;

Bên cạnh đó, theo VCCI, việc đầu tư xây dựng một thương hiệu nông sản (quốc gia hay địa phương) cũng cần thực hiện đồng bộ các biện pháp để đạt hiệu quả tối ưu với mục tiêu cuối cùng là thương hiệu nông sản đó phổ biến, có thể nhận diện và mang lại giá trị kinh tế. Có như thế, các chính sách và kinh phí hỗ trợ của Nhà nước mới có hiệu quả và không lãng phí.

Ngược lại, nguồn hỗ trợ của Nhà nước có thể bị sử dụng mà không đạt hiệu quả. Do đó, để đảm bảo mục tiêu chính sách, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc thiết kế chính sách theo hướng chọn lọc một số thương hiệu nông sản Việt Nam có tiềm năng (theo tiêu chí) và sẽ hỗ trợ các chi phí, hoạt động để phát triển thương hiệu. Việc đo lường hiệu quả có thể đặt theo các tiêu chí cụ thể như sản lượng/chất lượng, số lượng kênh phân phối và doanh thu.