16:14 05/10/2023

Bốn ngân hàng thương mại nhà nước đã xử lý gần 120 nghìn tỷ nợ xấu trong năm 2022

Kỳ Phong

Số liệu từ báo cáo của Bộ Tài chính cho thấy tổng số nợ xấu của các ngân hàng thương mại nhà nước được xử lý trong năm 2022 thông qua các hình thức khách hàng trả nợ, bán phát mại tài sản, trích lập dự phòng đạt 119.888 tỷ đồng; tăng 60.381 tỷ đồng (101%) so cuối năm 2021…

 Tổng nợ xấu năm 2022 của “big 4” là 78.240 tỷ đồng.
Tổng nợ xấu năm 2022 của “big 4” là 78.240 tỷ đồng.

Bộ trưởng Bộ Tài chính vừa thay mặt Chính phủ gửi tới Quốc hội báo cáo về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2022. Trong đó có đề cập hoạt động của 4 ngân hàng thương mại nhà nước là Agribank, BIDV, Vietcombank và Vietinbank (big 4).

TỶ LỆ NỢ XẤU 1,33%, TĂNG 11% SO VỚI 2021

Báo cáo cho biết tổng nợ xấu năm 2022 của “big 4” là 78.240 tỷ đồng, tăng 14.753 tỷ đồng so với năm 2021, tương ứng với tỷ lệ tăng 23,24%. Tỷ lệ nợ xấu năm 2022 là 1,33%, tăng 11% so với năm 2021.

Đến cuối năm 2022, tổng số dư các khoản nợ được cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 09/2014/TTNHNN và Quyết định số 780/QĐ-NHNN của khối ngân hàng thương mại nhà nước là 2.831 tỷ đồng, giảm 1.204 tỷ đồng so với năm 2021, tương đương 29,84%, trong đó các ngân hàng giảm dần số dư các khoản nợ cơ cấu giữ nguyên nhóm nợ (Vietcombank chỉ còn 68 tỷ đồng dư nợ; BIDV không còn dư nợ).

Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN (đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 03/2021/TT-NHNN và Thông tư số 14/2021/TT-NHNN) đến cuối năm 2022 là 69.934 tỷ đồng, giảm 185.666 tỷ đồng (-73%) so với năm 2021.

Đến thời điểm 31/12/2022, tổng dư nợ của khách hàng có số dư được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi và giữ nguyên nhóm nợ của khối ngân hàng thương mại nước là 50.056 tỷ đồng.

Tổng số nợ xấu của các ngân hàng thương mại nhà nước được xử lý trong năm 2022 thông qua các hình thức: Khách hàng trả nợ, bán phát mại tài sản; trích lập dự phòng đạt 119.888 tỷ đồng, tăng 60.381 tỷ đồng (101%) so cuối năm 2021; trong đó, sử dụng dự phòng rủi ro 62.599 tỷ đồng, tăng 23.686 tỷ đồng (61%) so cuối năm 2021.

ĐẨY MẠNH HUY ĐỘNG VÀ CHO VAY TRÊN THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG

Theo báo cáo, đến cuối năm 2022, tổng nợ phải trả và vốn chủ sở hữu (tổng nguồn vốn) của khối ngân hàng thương mại nhà nước đạt 7.617.693 tỷ đồng, tăng 1.213.411 tỷ đồng (19%) so với cuối năm 2021. Cơ cấu nguồn vốn huy động vẫn chiếm tỷ trọng lớn bởi lượng tiền gửi khách hàng. Các hoạt động huy động khác cũng tăng mạnh trong năm như qua thị trường liên ngân hàng (TT2), phát hành giấy tờ có giá (huy động TT1).

Trong đó, các khoản nợ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đạt 330.754 tỷ đồng, tăng 261.235 tỷ đồng (376%) so cuối năm 2021.

Các nguồn vốn huy động như tiền gửi của khách hàng đạt 5.590.177 tỷ đồng, tăng 370.103 tỷ đồng (7%) so với cuối năm 2021.  Phát hành giấy tờ có giá: đạt 352.223 tỷ đồng, tăng 118.095 tỷ đồng (50%) so cuối năm 2021.

Nguồn vốn huy động thị trường II đạt 651.664 tỷ đồng, tăng 301.617 tỷ đồng (86%) so với cuối năm 2021.

Về sử dụng vốn, "Big 4" gửi 241.657 tỷ đồng tại Ngân hàng Nhà nước, giảm 21.228 tỷ đồng (8%) so với cuối năm 2021.  Tiền gửi và cho vay tổ chức tín dụng khác là 970.487 tỷ đồng, tăng 304.656 tỷ đồng (46%) so với cuối năm 2021.

Trên cơ sở đảm bảo kiểm soát tốt chất lượng tín dụng và kiểm soát trong giới hạn được Ngân hàng Nhà nước cho phép, hoạt động tín dụng năm 2022 của khối ngân hàng thương mại nhà nước đã có sự tăng trưởng so với năm 2021. Việc mở rộng và tăng trưởng tín dụng luôn đảm bảo an toàn, hiệu quả và kiểm soát chặt chẽ lĩnh vực cho vay tiền ẩn rủi ro. Đến cuối năm 2022, tổng dư nợ cho vay đạt: 5.257.307 tỷ đồng, tăng 609.633 tỷ đồng (13%) so với cuối năm 2021.

Về hoạt động đầu tư, đến cuối năm 2022, tổng số dư các khoản chứng khoán kinh doanh đầu tư của khối ngân hàng thương mại nhà nước là 830.749 tỷ đồng (đã tính dự phòng rủi ro), tăng 231.650 tỷ đồng (39%) so với cuối năm 2021.

NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC HƠN 22,5 NGHÌN TỶ

Tổng doanh thu năm 2022 của 4 “ông lớn” ngân hàng đạt 538.372 tỷ đồng, tăng 95.835 tỷ đồng (22%) so với năm 2021. Tổng chi phí đạt 436.723 tỷ đồng, tăng 64.717 tỷ đồng (17%) so với năm 2021.

Tổng lợi nhuận trước thuế của big 4 đạt 101.648 tỷ đồng, tăng 31.118 tỷ đồng (44%) so với cùng kỳ năm 2021. Lợi nhuận sau thu đạt 81.510 tỷ đồng, tăng 24.875 tỷ đồng (44%) so với cùng kỳ năm 2021. 

 

Đến cuối năm 2022, các ngân hàng thương mại nhà nước đã nộp vào ngân sách 22.516,4 tỷ đồng. Đứng đầu là Agribank với 13.062,27 tỷ đồng nộp vào ngân sách; Vietinbank 6.520 tỷ đồng; BIDV: 4.891 tỷ đồng; Vietcombank: 6.046 tỷ đồng.

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) hợp nhất thời điểm cuối năm 2022 đạt 18,74%, tăng 3,24% so với cùng kỳ năm 2021.

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản (ROA) hợp nhất thời điểm cuối năm 2022: đạt 1,07%, tăng 0,19% so với cùng kỳ năm 2021.

Theo báo cáo các ngân hàng thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật thuế hiện hành.

Đến cuối năm 2022, các ngân hàng thương mại nhà nước đã nộp vào ngân sách 22.516,4 tỷ đồng. Đứng đầu là Agribank với 13.062,27 tỷ đồng nộp vào ngân sách; Vietinbank 6.520 tỷ đồng; BIDV: 4.891 tỷ đồng; Vietcombank: 6.046 tỷ đồng.