15:09 06/08/2024

Hợp tác và chuyển đổi năng lượng là chìa khóa chống biến đổi khí hậu

Ngọc Lan

Việt Nam đã có nhiều cột mốc trên hành trình chuyển dịch chống biến đổi khí hậu, tuy nhiên, cần xác định hợp tác và chuyển đổi năng lượng vẫn là trọng tâm của hành trình này...

Ông Tim Evans, Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam, chia sẻ tại sự kiện Hội nghị thượng định: 3P Green Impact. Ảnh: HSBC Việt Nam.
Ông Tim Evans, Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam, chia sẻ tại sự kiện Hội nghị thượng định: 3P Green Impact. Ảnh: HSBC Việt Nam.

Trong hai năm qua, Việt Nam đã có nhiều cột mốc trên hành trình chuyển dịch chống biến đổi khí hậu, từ cam kết cân bằng phát thải đưa ra tại COP26 đến Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, trong đó, trọng tâm của hành trình này là hợp tác và chuyển đổi năng lượng vẫn không thay đổi, ông Tim Evans, Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam, chia sẻ tại sự kiện Hội nghị thượng định: 3P Green Impact vừa được tổ chức gần đây.

Theo ông Tim Evans, hợp tác là chìa khóa. Biến đổi khí hậu là bài toán không của riêng ai và cũng không ai có thể giải bài toán này một mình cả. Thực tế, chưa khi nào tất cả chúng ta cần hợp tác chặt chẽ với nhau như lúc này. Cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức và chính phủ cần đồng lòng hợp sức đạt được các mục tiêu khí hậu đầy tham vọng.

Trong khi đó, chuyển đổi năng lượng là cốt lõi. Cũng giống như nhiều quốc gia khác, hành trình chuyển dịch của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào việc chuyển sang năng lượng sạch, trên quy mô lớn.

Than đá cung cấp khoảng 3/4 tổng sản lượng điện. Tỷ trọng than đá gia tăng phản ánh nhu cầu điện tăng cao do kinh tế tiếp tục phục hồi và nắng nóng gay gắn khiến người dân dùng điều hòa nhiều hơn.

Cân bằng phát thải đòi hỏi cần thận trọng cân nhắc dừng hoạt động sớm các nhà máy nhiệt điện than một cách có trách nhiệm, đồng thời vẫn phải đảm bảo sản lượng điện nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng thông qua các nguồn tái tạo mới và sạch.

"Tại COP28 năm ngoái, tôi đã rất ấn tượng với tinh thần quyết tâm tăng gấp ba sản lượng năng lượng tái tạo vào năm 2030 và chuyển dịch dần khỏi nhiên liệu hóa thạch," ông Tim Evans cho biết.

"Vai trò của năng lượng tái tạo cũng được nhấn mạnh trong Quy hoạch điện VIII của Việt Nam, trong đó năng lượng tái tạo được kỳ vọng sẽ chiếm trên 30% cơ cấu năng lượng. Tin tốt là Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi và Chính phủ cam kết đạt cân bằng phát thải vào năm 2050. Tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam mang đến tiềm năng để thu hút thêm đầu tư vào ngành năng lượng tái tạo đang phát triển nhưng cũng cần thúc đẩy sự tham gia từ khu vực tư nhân nhiều hơn nữa."

VẪN CÒN NHỮNG TRỞ NGẠI

Trở ngại đầu tiên theo ông Tim Evans đó là trong việc tách bạch tăng trưởng kinh tế với phát thải.

Tăng trưởng kinh tế thường gắn với gia tăng phát thải carbon và tiêu thụ năng lượng, vì vậy, nếu duy trì các mô hình tăng trưởng kiểu cũ thì sẽ để lại tác động tiêu cực lên môi trường tự nhiên và khí hậu. Tuy nhiên, tin tốt là mối liên kết này đã không còn tồn tại ở các quốc gia đã phát triển: GDP của Mỹ tăng gấp đôi từ 1990 trong khi phát thải carbon giảm.

Mối liên kết này cũng đã suy yếu ở khắp mọi nơi: Trung Quốc tăng trưởng gấp 14 lần từ 1990 nhưng phát thải carbon tăng gấp 5 lần. Ở Ấn Độ, tăng trưởng GDP cao hơn mức tăng phát thải carbon trên 50%.

Tăng trưởng của Trung Quốc và Ấn Độ có hiệu quả về mặt năng lượng hơn châu Âu trước đây và hưởng lợi nhiều từ công nghệ mới. Vì vậy, Việt Nam cũng có thể duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh chóng trong khi chuyển dịch hướng đến cân bằng phát thải. Từ 1990, GDP của Việt Nam tăng gấp 66 lần trong khi phát thải carbon tăng 12 lần.

Thứ hai, đầu tư vào hạ tầng bền vững thường gặp trở ngại do thiếu dự án đủ hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Nguyên nhân là do số lượng hạn chế các dự án đủ điều kiện tiếp cận tín dụng ngân hàng, đáp ứng yêu cầu về rủi ro và lợi nhuận của nhà đầu tư. 

Ngoài ra, nguyên nhân còn nằm ở sự thiếu sự hài hòa giữa các hệ thống phân loại khiến các quyết định tài chính trở nên khó khăn. Khả năng trao đổi qua lại và tính thống nhất trong tài chính bền vững và chuyển dịch có thể thúc đẩy niềm tin của nhà đầu tư.

Tiếp đến là cần thêm kế hoạch chuyển dịch của doanh nghiệp và dữ liệu phát thải có thể so sánh có thể giúp các ngân hàng đánh giá và tài trợ chuyển dịch cho khách hàng.

CẦN SỰ HỖ TRỢ CỦA NGÀNH TÀI CHÍNH

Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam tin tưởng rằng các ngân hàng có thể hỗ trợ Việt Nam duy trì tăng trưởng thông qua một hành trình chuyển dịch tuần tự sang năng lượng sạch, củng cố sự vững vàng trong dài hạn, đồng thời hỗ trợ lao động và cộng đồng trên hành trình đó.

Ngân hàng như HSBC có thể hiện thực hóa tham vọng cân bằng phát thải theo hai hướng. Quan trọng nhất là hỗ trợ khách hàng chuyển dịch. Tiếp đến là đưa vốn đến nơi cần, nghĩa là đồng hành cùng các chính phủ, các tổ chức nhân đạo và xã hội để tạo ra thay đổi mang tính hệ thống.

Năng lực tham gia của các ngân hàng còn có thể được nâng cao thông qua hợp tác–quy tụ các bên cần thiết lại để cùng vượt qua các thách thức. Thỏa thuận hợp tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) là một ví dụ tiêu biểu.

JETP là những thỏa thuận tài chính đa phương, kết nối các quốc gia thuộc nhóm G7 cùng các định chế tài chính và chính phủ các nước nhằm thúc đẩy việc giảm dần than đá, đồng thời giải quyết những hệ quả xã hội liên quan.

Năm 2022, Việt Nam ký thỏa thuận JETP với Nhóm đối tác Quốc tế (International Partners Group) bao gồm các quốc gia đã phát triển nhằm cung cấp 7,75 tỷ USD tương đương một nửa nguồn vốn cam kết để Việt Nam chuyển sang năng lượng xanh.

Tài chính tư dẫn đầu là Liên minh tài chính Glasgow vì cân bằng phát thải (Glasgow Financial Alliance for Net Zero - GFANZ) đã cam kết huy động lượng vốn ít nhất cũng tương đương như vậy. Nguồn vốn này sẽ giúp thu hẹp khoảng cách về đầu tư và thu hút hàng tỷ đô-la vào quá trình chuyển dịch của Việt Nam.

"Tuy nhiên, còn nhiều việc phải làm để mô hình này thực sự hiệu quả giữa các đối tác công và tư," ông Tim Evans cho biết. "Để mô hình này thành công ở bất kỳ nước nào, chính sách quốc gia phải hỗ trợ việc giảm dần than đá và mở rộng quy mô năng lượng tái tạo, bao gồm hạ tầng thuận lợi chẳng hạn như lưới điện và hệ thống quản lý điện thông minh."

Các nền tảng tài chính hỗn hợp như Pentagreen, một liên doanh giữa HSBC và Temasek, có thể là một giải pháp khả thi để vượt qua các trở ngại về khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng, kết hợp vốn công và tư cho hạ tầng bền vững.

Nền tảng tài chính thông qua vốn nợ này hướng đến triển khai nguồn vốn hỗn hợp dưới dạng các khoản vay với quy mô lớn nhằm khai mở và huy động vốn thương mại cho các dự án ít có khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy phát triển hạ tầng bền vững ở châu Á, với trọng tâm ban đầu là khu vực Đông Nam Á.

Trọng tâm chính là năng lượng tái tạo và lưu trữ năng lượng, vận tải sạch, cũng như các ngành xử lý nước và chất thải. Các giao dịch trong những lĩnh vực khác như thích nghi với biến đổi khí hậu, nông nghiệp và sử dụng đất cũng như các giải pháp ứng dụng công nghệ có khả năng sẽ được xem xét trong tương lai. 

Mới đây, Pentagreen và Clifford Capital, một nền tảng tài chính hạ tầng, vừa công bố hợp tác cung cấp một khoản vay xanh trị giá 30 triệu USD cho BE C&I Solutions nhằm xúc tiến xây dựng các dự án năng lượng sinh học bền vững phân tán ở khắp Đông Nam Á và Ấn Độ.

Tổng Giám đốc HSBC cũng lưu ý rằng các biện pháp chính sách cấp quốc gia có thể cho phép các ngân hàng tham gia bằng cách xác định danh mục các dự án đủ điều kiện tiếp cận tín dụng ngân hàng.

Thêm nữa, thiết lập khung hợp đồng cấp quốc gia đối với điện gió, điện mặt trời và các năng lượng tái tạo khác có thể mang lại lợi ích cho các định chế tài chính tìm kiếm cơ hội tham gia, tạo ra sự thống nhất và mang lại khả năng so sánh giữa các dự án để giúp đánh giá rủi ro. Hầu hết tài chính hỗn hợp được triển khai ở cấp độ giao dịch theo hướng ít có khả năng nhân rộng.