"Khó khăn về điện sẽ kéo dài đến hết tháng Sáu"
Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng trao đổi với báo chí về tình trạng thiếu điện
Trong hội trường, thảo luận về tình hình kinh tế xã hội ngày 27/5, đại biểu Quốc hội phàn nàn về ứng xử của ngành điện trước tình trạng thiếu điện khiến doanh nghiệp và người dân điêu đứng.
Bên hàng lang, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho rằng “nguyên nhân chủ quan là chính”.
Thưa bộ trưởng, một số đại biểu đã đặt câu hỏi nhiều năm liền thiếu điện thì đây có phải là việc đương nhiên, không thể tránh khỏi?
Năm nay rất mừng vì dù thiếu điện như vậy nhưng mà nhân dân cả nước rất là quan tâm và có sự thông cảm với ngành điện. Yếu tố khách quan là vấn đề hạn hán và nóng kéo dài. Năm 2009 thì tổng sản xuất điện là vào khoảng 19.000 MW, và phụ tải cao nhất cũng chỉ là 15.000 MW thôi. Về mặt lý thuyết thì chúng ta có gần 4000MW để dự phòng.
Trước tình hình khó khăn như vậy ngành điện sẽ có lộ trình. Một là ưu tiên trọng điểm về kinh tế xã hội; hai là ưu tiên cho sản xuất và đặc biệt là hàng xuất khẩu; ba là bệnh viện trường học; thứ tư là phục vụ cho những sự kiện trọng đại của đất nước; thứ năm, nếu buộc phải tiết giảm thì phải có thông báo trước để luân phiên đảm bảo công bằng. Tôi xin nhắc lại cái khó khăn của ngành điện năm nay phần lớn do khách quan.
Nhưng đại biểu lại có nhận xét là ngành điện “thích là cắt”, tức là nguyên nhân chủ quan là chính?
Đó là do việc giải thích, tuyên truyền mình làm chưa tốt cho nên nhân dân chưa hiểu được. Chúng tôi cũng đi kiểm tra và thấy rằng không thể tránh khỏi có chỗ này chỗ kia cá nhân hay là một vài đơn vị ngành điện cũng có những thái độ ứng xử chưa phù hợp làm cho thái độ bức xúc trong dân ngày càng tăng lên.
Chúng tôi đã yêu cầu ngành điện nghiêm túc. Nhân dân không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không minh bạch. Một lần nữa tôi xin nói là tình hình khó khăn hiện nay là do khách quan. Còn nếu ta làm gì đó không minh bạch không công bằng thì chắc chắn là nơi đó người dân sẽ có bức xúc.
Vậy biện pháp để khắc phục tình trạng thiếu điện là gì, thưa bộ trưởng?
Chúng tôi đã tìm mọi biện pháp để nhanh chóng khắc phục tình trạng thiếu điện, như: đưa vào nguồn điện mới cho đúng tiến độ; huy động tất cả nguồn điện có thể được, kể cả nguồn điện hiện nay giá rất cao, ví dụ nguồn điện chạy dầu, chạy diezen giá thành lên tới 3.000-4.000 đồng một kw/h trong khi giá bán chỉ hơn 1.000 đồng; nhanh chóng sửa chữa thiết bị hỏng để đưa vào phục vụ phát điện.
Hiện có một số nhà máy điện mới vào hoạt động, trục trặc vẫn xảy ra, như nhà máy điện ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Sơn Động (Bắc Giang). Và nếu tăng cường cuộc vận động sử dụng năng lượng một cách hiệu quả, ta có thể tiết kiệm được 20% năng lượng hiện nay.
Theo bộ trưởng thì với những biện pháp đó, bao giờ tình hình thiếu điện được khắc phục?
Từ tháng sáu trở đi là bắt đầu vào mùa mưa, nước hồ thủy điện được cải thiện hơn. Do đó có thể nói rằng khó khăn về điện như hiện nay sẽ kéo dài đến giữa tháng 6. Từ khoảng 20/6 trở đi, tình hình sẽ được cải thiện và trở lại mức bình thường như năm 2009.
Tôi xin nhắc lại khó khăn năm nay vượt ra khỏi khả năng của ngành điện. Nguyên nhân phần lớn là khách quan. Trong khi nước hồ thủy điện của ta đã ít, song ngay đầu năm ta phải xả phục vụ tưới cho nông nghiệp. Nếu giả sử đầu năm không phải xả, đến lúc này dùng để phát điện thì chắc chắn tình hình sẽ khá hơn.
Bộ trưởng suy nghĩ thế nào khi tại diễn đàn Quốc hội, nhiều đại biểu đề nghị cấm xuất khẩu than để dành cho nhiệt điện?
Hiện nguồn năng lượng không tái tạo như than, dầu khí ngày càng cạn kiệt, trong một vài chục năm tới nếu không có phát hiện mới thì rất khó khăn cho việc khai thác để cung cấp cho nhu cầu của đất nước, trong đó có phát điện. Vì thế mà câu chuyện sử dụng than, dầu khí cho phát điện là câu chuyện liên quan đến vấn đề an ninh năng lượng.
Từ năm 2009 trở về trước, ngành than khai thác vượt nhu cầu trong nước. Năm 2008-2009 bình quân mỗi năm ta khai thác được 40 triệu tấn than, trong khi chỉ sử dụng trong nước khoảng 20 triệu tấn (phát điện khoảng 6-7 triệu tấn, còn lại hơn 10 triệu tấn cho các nhu cầu khác như xi măng, phân bón, giấy và sản xuất vật liệu xây dựng).
Hiện nay có nhiều chủng loại than trong nước chúng ta chưa sử dụng đến, đó là loại rất tốt. Nếu dùng để phát điện hay làm nhiên liệu cho các ngành khác thì rất phí trong khi có thể xuất khẩu với giá rất cao. Hơn nữa ngành than đang cần rất nhiều kinh phí, kể cả ngoại tệ để tái đầu tư cho ngành, từ máy xúc, máy ủi đến các nhà máy tuyển quặng.
Hiện các thiết bị ngành than phần lớn vẫn phải nhập khẩu và đòi hỏi phải có nguồn tệ. Trong khi nguồn ngoại tệ của đất nước phải dành cho các nhu cầu khác, nên câu chuyện xuất khẩu than không phải chỉ là những loại than ta chưa sử dụng đến mà cái chính xuất khẩu để lấy ngoại tệ mua máy móc thiết bị cho ngành than và tăng thêm ngoại tệ cho đất nước.
Tuy nhiên, Chính phủ đã có chủ trương không kéo dài xuất khẩu than vì nguồn than ngày càng cạn kiệt, đảm bảo than cho các nhu cầu trong nước, trong đó có phát điện và tránh những tiêu cực. Chúng ta phải giảm dần xuất khẩu than.
Nhưng giảm đến mức nào và xuất khẩu loại than gì thì phải tính toán rất là cụ thể. Đây là câu chuyện mà ngành Công Thương kết hợp với các cơ quan có liên quan như ngân hàng, tài chính, kế hoạch đầu tư đều phải tính toán từ điều chỉnh của Chính phủ.
Thưa bộ trưởng, là cơ quan tham mưu cho Chính phủ, Bộ Công thương đã có lộ trình cụ thể khi nào thì giảm và dừng xuất khẩu than?
Chúng tôi đã có chương trình dài hạn về khai thác và xuất khẩu than nằm trong chiến lược của ngành than. Đến khoảng năm 2015 trở đi, khi nhu cầu than trong nước tăng lên rất lớn, một loạt các nhà máy điện mới đưa vào khai thác thì không những chúng ta không xuất khẩu than mà phải nhập khẩu.
Tuy nhiên, tôi vẫn nhắc lại trong ngành than có đặc thù là vẫn còn có một số chủng loại rất tốt, chất lượng rất cao, dùng trong nước thì lãng phí vì nhiệt năng rất cao thì ta có thể vẫn tiếp tục xuất khẩu. Đồng thời ta nhập than chất lượng thấp hơn, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trong nước, như ngành điện, xi măng. Bản thân sự chênh lệch giữa giá xuất khẩu và nhập khẩu cũng đã tạo nên hiệu quả rồi.
Bên hàng lang, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho rằng “nguyên nhân chủ quan là chính”.
Thưa bộ trưởng, một số đại biểu đã đặt câu hỏi nhiều năm liền thiếu điện thì đây có phải là việc đương nhiên, không thể tránh khỏi?
Năm nay rất mừng vì dù thiếu điện như vậy nhưng mà nhân dân cả nước rất là quan tâm và có sự thông cảm với ngành điện. Yếu tố khách quan là vấn đề hạn hán và nóng kéo dài. Năm 2009 thì tổng sản xuất điện là vào khoảng 19.000 MW, và phụ tải cao nhất cũng chỉ là 15.000 MW thôi. Về mặt lý thuyết thì chúng ta có gần 4000MW để dự phòng.
Trước tình hình khó khăn như vậy ngành điện sẽ có lộ trình. Một là ưu tiên trọng điểm về kinh tế xã hội; hai là ưu tiên cho sản xuất và đặc biệt là hàng xuất khẩu; ba là bệnh viện trường học; thứ tư là phục vụ cho những sự kiện trọng đại của đất nước; thứ năm, nếu buộc phải tiết giảm thì phải có thông báo trước để luân phiên đảm bảo công bằng. Tôi xin nhắc lại cái khó khăn của ngành điện năm nay phần lớn do khách quan.
Nhưng đại biểu lại có nhận xét là ngành điện “thích là cắt”, tức là nguyên nhân chủ quan là chính?
Đó là do việc giải thích, tuyên truyền mình làm chưa tốt cho nên nhân dân chưa hiểu được. Chúng tôi cũng đi kiểm tra và thấy rằng không thể tránh khỏi có chỗ này chỗ kia cá nhân hay là một vài đơn vị ngành điện cũng có những thái độ ứng xử chưa phù hợp làm cho thái độ bức xúc trong dân ngày càng tăng lên.
Chúng tôi đã yêu cầu ngành điện nghiêm túc. Nhân dân không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không minh bạch. Một lần nữa tôi xin nói là tình hình khó khăn hiện nay là do khách quan. Còn nếu ta làm gì đó không minh bạch không công bằng thì chắc chắn là nơi đó người dân sẽ có bức xúc.
Vậy biện pháp để khắc phục tình trạng thiếu điện là gì, thưa bộ trưởng?
Chúng tôi đã tìm mọi biện pháp để nhanh chóng khắc phục tình trạng thiếu điện, như: đưa vào nguồn điện mới cho đúng tiến độ; huy động tất cả nguồn điện có thể được, kể cả nguồn điện hiện nay giá rất cao, ví dụ nguồn điện chạy dầu, chạy diezen giá thành lên tới 3.000-4.000 đồng một kw/h trong khi giá bán chỉ hơn 1.000 đồng; nhanh chóng sửa chữa thiết bị hỏng để đưa vào phục vụ phát điện.
Hiện có một số nhà máy điện mới vào hoạt động, trục trặc vẫn xảy ra, như nhà máy điện ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Sơn Động (Bắc Giang). Và nếu tăng cường cuộc vận động sử dụng năng lượng một cách hiệu quả, ta có thể tiết kiệm được 20% năng lượng hiện nay.
Theo bộ trưởng thì với những biện pháp đó, bao giờ tình hình thiếu điện được khắc phục?
Từ tháng sáu trở đi là bắt đầu vào mùa mưa, nước hồ thủy điện được cải thiện hơn. Do đó có thể nói rằng khó khăn về điện như hiện nay sẽ kéo dài đến giữa tháng 6. Từ khoảng 20/6 trở đi, tình hình sẽ được cải thiện và trở lại mức bình thường như năm 2009.
Tôi xin nhắc lại khó khăn năm nay vượt ra khỏi khả năng của ngành điện. Nguyên nhân phần lớn là khách quan. Trong khi nước hồ thủy điện của ta đã ít, song ngay đầu năm ta phải xả phục vụ tưới cho nông nghiệp. Nếu giả sử đầu năm không phải xả, đến lúc này dùng để phát điện thì chắc chắn tình hình sẽ khá hơn.
Bộ trưởng suy nghĩ thế nào khi tại diễn đàn Quốc hội, nhiều đại biểu đề nghị cấm xuất khẩu than để dành cho nhiệt điện?
Hiện nguồn năng lượng không tái tạo như than, dầu khí ngày càng cạn kiệt, trong một vài chục năm tới nếu không có phát hiện mới thì rất khó khăn cho việc khai thác để cung cấp cho nhu cầu của đất nước, trong đó có phát điện. Vì thế mà câu chuyện sử dụng than, dầu khí cho phát điện là câu chuyện liên quan đến vấn đề an ninh năng lượng.
Từ năm 2009 trở về trước, ngành than khai thác vượt nhu cầu trong nước. Năm 2008-2009 bình quân mỗi năm ta khai thác được 40 triệu tấn than, trong khi chỉ sử dụng trong nước khoảng 20 triệu tấn (phát điện khoảng 6-7 triệu tấn, còn lại hơn 10 triệu tấn cho các nhu cầu khác như xi măng, phân bón, giấy và sản xuất vật liệu xây dựng).
Hiện nay có nhiều chủng loại than trong nước chúng ta chưa sử dụng đến, đó là loại rất tốt. Nếu dùng để phát điện hay làm nhiên liệu cho các ngành khác thì rất phí trong khi có thể xuất khẩu với giá rất cao. Hơn nữa ngành than đang cần rất nhiều kinh phí, kể cả ngoại tệ để tái đầu tư cho ngành, từ máy xúc, máy ủi đến các nhà máy tuyển quặng.
Hiện các thiết bị ngành than phần lớn vẫn phải nhập khẩu và đòi hỏi phải có nguồn tệ. Trong khi nguồn ngoại tệ của đất nước phải dành cho các nhu cầu khác, nên câu chuyện xuất khẩu than không phải chỉ là những loại than ta chưa sử dụng đến mà cái chính xuất khẩu để lấy ngoại tệ mua máy móc thiết bị cho ngành than và tăng thêm ngoại tệ cho đất nước.
Tuy nhiên, Chính phủ đã có chủ trương không kéo dài xuất khẩu than vì nguồn than ngày càng cạn kiệt, đảm bảo than cho các nhu cầu trong nước, trong đó có phát điện và tránh những tiêu cực. Chúng ta phải giảm dần xuất khẩu than.
Nhưng giảm đến mức nào và xuất khẩu loại than gì thì phải tính toán rất là cụ thể. Đây là câu chuyện mà ngành Công Thương kết hợp với các cơ quan có liên quan như ngân hàng, tài chính, kế hoạch đầu tư đều phải tính toán từ điều chỉnh của Chính phủ.
Thưa bộ trưởng, là cơ quan tham mưu cho Chính phủ, Bộ Công thương đã có lộ trình cụ thể khi nào thì giảm và dừng xuất khẩu than?
Chúng tôi đã có chương trình dài hạn về khai thác và xuất khẩu than nằm trong chiến lược của ngành than. Đến khoảng năm 2015 trở đi, khi nhu cầu than trong nước tăng lên rất lớn, một loạt các nhà máy điện mới đưa vào khai thác thì không những chúng ta không xuất khẩu than mà phải nhập khẩu.
Tuy nhiên, tôi vẫn nhắc lại trong ngành than có đặc thù là vẫn còn có một số chủng loại rất tốt, chất lượng rất cao, dùng trong nước thì lãng phí vì nhiệt năng rất cao thì ta có thể vẫn tiếp tục xuất khẩu. Đồng thời ta nhập than chất lượng thấp hơn, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trong nước, như ngành điện, xi măng. Bản thân sự chênh lệch giữa giá xuất khẩu và nhập khẩu cũng đã tạo nên hiệu quả rồi.