
Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025
Sáng kiến Diễn đàn thường niên Kinh tế mới Việt Nam (VNEF) đã được khởi xướng và tổ chức thành công từ năm 2023. VNEF 2025 (lần thứ 3) có chủ đề: "Sức bật kinh tế Việt Nam: từ nội lực tới chuỗi giá trị toàn cầu".
Thứ Bảy, 04/10/2025
Anh Khuê
08/08/2024, 10:34
Tây Nguyên được quy hoạch là vùng phát triển bền vững, có nền kinh tế xanh, tuần hoàn, hình thành các khu vực sản xuất lớn về cây công nghiệp, cây ăn quả, rau hoa và là trung tâm năng lượng tái tạo của cả nước...
Và Tây nguyên cũng đồng thời sẽ hình thành một số khu du lịch chất lượng cao, trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.
Quyết định số 371/QĐ-TTg ngày 04/5/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đã xác định rõ những mục tiêu mà vùng Tây Nguyên hướng tới.
Vùng Tây Nguyên bao gồm toàn bộ địa giới hành chính của 5 tỉnh gồm Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Tổng diện tích tự nhiên là 54.548 km2, chiếm 1/6 diện tích tự nhiên cả nước, dân số gần 6 triệu người với 49 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó có gần 2,2 triệu người là đồng bào dân tộc thiểu số.
Tây Nguyên từ lâu không chỉ là “phên giậu” quốc gia, mà còn là địa bàn chiến lược về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh của cả nước; đồng thời thuộc vùng tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia.
Quyết định 371/QĐ-TTg đặt mục tiêu đến năm 2050, Tây Nguyên là vùng phát triển bền vững, có nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Nơi đây sẽ hình thành các vùng sản xuất lớn về cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, hoa và là trung tâm năng lượng tái tạo của quốc gia; đồng thời hình thành một số khu du lịch chất lượng cao, điểm đến hấp dẫn của du khách.
Với đặc thù không gian sinh thái, giàu bản sắc văn hóa, hệ sinh thái rừng Tây Nguyên được Đảng, Chính phủ quan tâm bảo tồn và phát huy để trở thành nền tảng phát triển vùng; trong đó coi trọng phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường.
Xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ, là các nền tảng quan trọng thúc đẩy Tây Nguyên kết nối với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
Với lợi thế sẵn có của mình, Tây Nguyên sẽ phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, sinh thái, hữu cơ, quy mô lớn gắn với vùng sản xuất nông nghiệp tập trung áp dụng công nghệ cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng tiểu vùng.
Tập trung phát triển các cây trồng chủ lực gồm cây công nghiệp (cà phê, cao su, điều, hồ tiêu, chè, dâu, bông vải, mía,…), cây ăn quả (sầu riêng, bơ, chanh leo, chôm chôm, mít,…), dược thảo dược liệu, sâm Ngọc Linh, rau quả, hoa ôn đới gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, tạo ra sản phẩm có thương hiệu; phát triển các vùng chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thuỷ sản tập trung; thủy sản nước lạnh (cá hồi, cá tầm).
Nơi đây cũng sẽ hình thành trung tâm đầu mối về nông nghiệp gắn với khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cấp vùng và hành lang kinh tế; liên kết các chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp giữa các địa phương.
Tây Nguyên còn có lợi thế về rừng. Vì vậy, sẽ hướng phát triển kinh tế lâm nghiệp nhằm nâng cao đời sống của người làm nghề rừng; đồng thời cũng cơ cấu lại ngành lâm nghiệp theo hướng bền vững gắn với các chương trình mục tiêu quốc gia.
Hình thành các khu lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Phát triển kinh tế rừng, khuyến khích trồng rừng sản xuất ở những nơi có điều kiện phù hợp về đất đai, tạo vùng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến lâm sản. Tiếp tục phát triển bền vững các vùng nguyên liệu bảo đảm hiệu quả kinh tế gắn với bảo vệ môi trường trong khai thác, chế biến lâm sản...
Tây Nguyên không chỉ là “nóc nhà”, là “phên giậu”, Tây Nguyên còn được ví như “lá phổi xanh” của khu vực và quốc gia.
Theo Quyết định số 816/QĐ-BNN-KL ngày 20/3/2024 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2023, tính đến 31/12/2023, tổng diện tích rừng vùng Tây Nguyên là 2,59 triệu ha (cả nước 14.860.309 ha); trong đó, rừng tự nhiên chiếm 2,1 triệu ha và rừng trồng là 0,49 triệu ha. Tỷ lệ che phủ rừng là 46,34%.
Con số cụ thể chia ra như sau: Kon Tum 632,9 ngàn ha, gồm 552,3 ngàn ha rừng tự nhiên và 80,6 ngàn ha rừng trồng; Gia Lai: 650 ngàn ha, gồm 478,7 ngàn ha rừng tự nhiên và 171,3 ngàn ha rừng trồng; Đắk Lắk: 506,6 ngàn ha, gồm 411 ngàn ha rừng tự nhiên và 94,7 ngàn ha rừng trồng; Đắk Nông: 258,1 ngàn ha, gồm 196 ngàn ha rừng tự nhiên và 62,1 ngàn ha rừng trồng; và Lâm Đồng: 538 ngàn ha, gồm 454,7 ngàn ha rừng tự nhiên và 83,3 ngàn ha rừng trồng.
Các con số trên cho thấy sự không đồng đều về độ che phủ rừng ở từng địa phương riêng lẻ. Như Gia Lai hiện sở hữu diện tích rừng che phủ cao, đồng thời tỷ lệ rừng trồng cũng cao so với rừng tự nhiên, nhưng Đắk Lắk lại có có độ bao phủ rừng rất thấp, cả rừng tự nhiên và rừng trồng.
Điều này cho thấy tình trạng suy giảm diện tích và chất lượng rừng vẫn diễn ra mạnh mẽ; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển sản xuất lương thực, phát triển cây công nghiệp dài ngày với bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; tình trạng dân di cư tự do đang là vấn đề lớn gây áp lực vào rừng tự nhiên và đất lâm nghiệp.
Mục tiêu bảo vệ, khôi phục, phát triển bền vững vùng Tây Nguyên giai đoạn đến năm 2030 đạt diện tích 2,72 triệu ha, nâng tỷ lệ che phủ rừng lên 49,2%.
Để Tây Nguyên hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, quy hoạch vùng đặt trọng tâm phát triển ngành dịch vụ trong mối quan hệ tương hỗ phát triển với các ngành nông nghiệp, công nghiệp; tập trung phát triển thị trường cung ứng và tiêu thụ trong vùng và ngoài vùng theo các hành lang kết nối vùng và với cảng biển lớn ra các thị trường quốc tế.
Trong đó, phát triển thương mại hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, phù hợp với điều kiện đặc thù của thị trường khu vực đô thị, nông thôn. Đồng thời đẩy mạnh hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa qua biên giới trên cơ sở tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng ở một số cửa khẩu quốc tế chính.
Trong mục tiêu, định hướng phát triển xanh và bền vững, Tây Nguyên cũng tập trung phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa gắn với bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc Tây Nguyên; tăng cường kết nối và nâng cao chất lượng dịch vụ trong chuỗi giá trị sản phẩm du lịch đặc thù theo các địa bàn trọng điểm, gắn với di sản không gian văn hóa cồng chiêng, lễ hội truyền thống, văn hóa cà phê và du lịch cộng đồng.
Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả không chỉ giúp doanh nghiệp tối ưu hóa chi phí sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế và bảo vệ môi trường. Mặc dù nhận thức rõ tầm quan trọng, nhưng trên thực tế, việc đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng của doanh nghiệp vẫn còn nhiều trở ngại…
Dựa trên tính toán, đánh giá tác động của các xu hướng truyền thống lên tốc độ tăng trưởng, TS. Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, nêu rõ: việc duy trì mô hình tăng trưởng trên cơ sở xu hướng, cách thức khai thác các động lực tăng trưởng truyền thống sẽ trở thành một thách thức lớn với mục tiêu tăng trưởng nếu không có thay đổi liên quan đến mô hình tăng trưởng...
Đây là thời điểm đất nước rất cần sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt, sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân để cùng kiến tạo một mô hình tăng trưởng mới, đưa Việt Nam bứt phá, đạt tăng trưởng hai con số. Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương Nguyễn Thanh Nghị nhấn mạnh bốn định hướng tập trung trao đổi để nâng cao năng lực nội sinh, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tạo sức bật cho kinh tế Việt Nam...
Kinh tế hóa môi trường, trong đó thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái và nâng cao hiệu quả của công cụ thuế môi trường, phí môi trường, hạn ngạch phát thải. Áp dụng triệt để nguyên tắc “Người được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho bảo vệ môi trường; người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: