Thấy gì từ năng lực cạnh tranh các tỉnh năm nay?
Năng lực cạnh tranh của nhiều tỉnh, thành phố chậm được cải thiện trong năm vừa qua
Đà Nẵng đã “soán ngôi” Bình Dương để lần đầu tiên vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2008. Trong khi đó, Điện Biên lùi ba bậc, đứng cuối bảng năm nay.
So với năm ngoái, Long An vượt 15 bậc lên xếp loại Tốt, trong khi Bình Định “rớt” khỏi Top 10. Hai đầu tàu kinh tế của cả nước thì năm nay, Tp.HCM “thoái” 3 nấc, trong khi Hà Nội cũng “ngược dòng” 4 vị trí.
Nhìn trong “bảng tổng sắp”, tuy đa số vị trí mức độ thay đổi ít, nhưng về điểm số thì đánh giá của năm nay có kém hơn năm ngoái. 7.820 doanh nghiệp dân doanh tham gia vào cuộc điều tra năm nay (năm ngoái chỉ có 6.700 doanh nghiệp) "chấm điểm" 10 tiêu chí thì có khá nhiều là giảm điểm so với năm trước đó.
Những đánh giá kém lạc quan
Điều dễ nhận thấy là điểm số đạt được của 64 tỉnh, thành phố tham gia điều tra của năm nay thấp hơn so với năm ngoái.
Nếu tính trung bình điểm của 10 tỉnh, thành phố đứng đầu thì năm nay chỉ đạt 65,64 điểm, trong khi con số của năm ngoái là 68,46 điểm.
Do điểm số sụt giảm, có thể thấy một khác biệt toàn diện nữa trong đánh giá của năm 2007 và 2008 là sự dịch chuyển trong các nhóm tỉnh xếp hạng. Số tỉnh nằm trong nhóm Rất tốt và Tốt ít hơn năm ngoái (tương ứng là 3 so với 4 và 10 so với 13).
Ngược lại ở phía cuối bảng, xếp hạng Thấp năm nay tăng thêm 2 tỉnh so với năm 2007.
Sự sụt giảm về điểm số tập trung vào hai chỉ số thành phần là Chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân và Đào tạo lao động. Do đây là hai chỉ số có trọng số cao nên tác động của chúng lên kết quả cuối cùng khá lớn.
Theo Nhóm nghiên cứu, đáng chú ý là kết quả ghi nhận cho thấy sự không hài lòng có chiều hướng gia tăng đối với hiệu quả đóng góp của cán bộ địa phương và trung ương về phát triển kinh tế. Trong một số trường hợp, cảm nhận không tích cực của doanh nghiệp là do chất lượng các dịch vụ công đang giảm sút.
Cũng có một phần nguyên nhân doanh nghiệp quá kỳ vọng vào những tiến bộ từ cải cách pháp luật và thể chế ở Việt Nam và sự cải thiện liên tục trong công tác quản lý điều hành của chính quyền có thể làm gia tăng sự mong đợi của doanh nghiệp.
Vẫn có nhân tố mới
Trong đánh giá của Nhóm nghiên cứu, Đà Nẵng, Bình Dương, Vĩnh Phúc, Lào Cai, Đồng Tháp, An Giang vẫn nằm trong nhóm các tỉnh có công tác điều hành tốt nhất cả nước.
Các tỉnh "cải thiện" nhiều trong xếp hạng chỉ số CPI của năm nay, ở ngay Top đầu có Vĩnh Phúc từ vị trí số 7 lên vị trí số 3, Long An tăng 15 bậc lên vị trí số 6. Tiếp ngay sau có Bến Tre tăng 7 bậc lên vị trí số 7.
Trong các tỉnh xếp hạng khá, Bình Thuận tăng 8 bậc, Cà Mau cải thiện 11 vị trí. Cũng “bám đuổi” không xa, Hà Nam năm nay có cú nhảy ngoạn mục vượt 20 vị trí lên xếp thứ 26.
Nhóm nghiên cứu kết luận: tại đa số những tỉnh có bước nhảy vọt về vị trí, lãnh đạo tỉnh đã công khai các cam kết pháp lý để cải thiện điểm số PCI, thông qua việc chỉ rõ các điểm yếu và phân công trách nhiệm cho từng sở, ngành, đưa ra các mục tiêu có thể đo lường được.
Các nghiên cứu cũng ghi nhận cơ chế một cửa đã góp phần cải thiện đáng kể thủ tục hành chính, giảm thời gian doanh nghiệp phải chờ để hoàn thành thủ tục đăng ký kinh doanh, thủ tục gia nhập thị trường...
Đáng chú ý, bên cạnh khả năng tiếp cận các văn bản pháp lý đã được cải thiện, tính minh bạch, công khai trong thu thuế cũng tốt hơn, thì chỉ số Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước của năm nay thấp chưa từng có.
Chỉ có 39% số doanh nghiệp tư nhân cho rằng có những ưu đãi rõ rệt đối với doanh nghiệp Nhà nước, trong khi đa phần cho rằng các cấp lãnh đạo đã quan tâm hơn đến doanh nghiệp tư nhân.
Còn những “điểm đen”
Trong Top cuối, với sự có mặt của Bắc Kạn, Thái Nguyên, Nghệ An, Phú Yên, Phú thọ..., các chỉ số về Chính sách phát triển kinh tế tư nhân, Đào tạo lao động tỏ ra kém hơn cả, đặc biệt là khi xét đến từng chỉ tiêu cụ thể.
Từ những đánh giá thực tế, Nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng thời gian doanh nghiệp phải bỏ ra để giải quyết các vấn đề liên quan đến giấy tờ và thủ tục hành chính tiếp tục tăng lên.
Hiện tại, có tới 23% số doanh nghiệp phải bỏ ra trên 10% quỹ thời gian để thực hiện các thủ tục hành chính. Số trả lời có sự cải thiện trong các rào cản về thủ tục là không nhiều.
Các hướng dẫn thủ tục cụ thể về bán hóa đơn giá trị gia tăng, gia hạn chứng chỉ về môi trường, vệ sinh thực phẩm, an toàn cháy nổ... đứng đầu danh sách những ưu tiên cần giải quyết của doanh nghiệp dành cho các nhà hoạch định chính sách.
Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra một tồn tại khá phổ biến là mỗi tỉnh lại có cách hiểu và thực hiện các thủ tục hành chính khác nhau. Cho dù đã có nhiều chương trình cải cách nhưng vẫn chưa thấy chuyển biến đáng kể.
Một điểm nữa cũng được Nhóm nghiên cứu lưu ý là chí phí không chính thức vẫn không cho thấy sự cài thiện trong suốt năm vừa qua, bất chấp nhiều nỗ lực để thay đổi tình hình.
So với năm ngoái, Long An vượt 15 bậc lên xếp loại Tốt, trong khi Bình Định “rớt” khỏi Top 10. Hai đầu tàu kinh tế của cả nước thì năm nay, Tp.HCM “thoái” 3 nấc, trong khi Hà Nội cũng “ngược dòng” 4 vị trí.
Nhìn trong “bảng tổng sắp”, tuy đa số vị trí mức độ thay đổi ít, nhưng về điểm số thì đánh giá của năm nay có kém hơn năm ngoái. 7.820 doanh nghiệp dân doanh tham gia vào cuộc điều tra năm nay (năm ngoái chỉ có 6.700 doanh nghiệp) "chấm điểm" 10 tiêu chí thì có khá nhiều là giảm điểm so với năm trước đó.
Những đánh giá kém lạc quan
Điều dễ nhận thấy là điểm số đạt được của 64 tỉnh, thành phố tham gia điều tra của năm nay thấp hơn so với năm ngoái.
Nếu tính trung bình điểm của 10 tỉnh, thành phố đứng đầu thì năm nay chỉ đạt 65,64 điểm, trong khi con số của năm ngoái là 68,46 điểm.
Do điểm số sụt giảm, có thể thấy một khác biệt toàn diện nữa trong đánh giá của năm 2007 và 2008 là sự dịch chuyển trong các nhóm tỉnh xếp hạng. Số tỉnh nằm trong nhóm Rất tốt và Tốt ít hơn năm ngoái (tương ứng là 3 so với 4 và 10 so với 13).
Ngược lại ở phía cuối bảng, xếp hạng Thấp năm nay tăng thêm 2 tỉnh so với năm 2007.
Sự sụt giảm về điểm số tập trung vào hai chỉ số thành phần là Chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân và Đào tạo lao động. Do đây là hai chỉ số có trọng số cao nên tác động của chúng lên kết quả cuối cùng khá lớn.
Theo Nhóm nghiên cứu, đáng chú ý là kết quả ghi nhận cho thấy sự không hài lòng có chiều hướng gia tăng đối với hiệu quả đóng góp của cán bộ địa phương và trung ương về phát triển kinh tế. Trong một số trường hợp, cảm nhận không tích cực của doanh nghiệp là do chất lượng các dịch vụ công đang giảm sút.
Cũng có một phần nguyên nhân doanh nghiệp quá kỳ vọng vào những tiến bộ từ cải cách pháp luật và thể chế ở Việt Nam và sự cải thiện liên tục trong công tác quản lý điều hành của chính quyền có thể làm gia tăng sự mong đợi của doanh nghiệp.
Vẫn có nhân tố mới
Trong đánh giá của Nhóm nghiên cứu, Đà Nẵng, Bình Dương, Vĩnh Phúc, Lào Cai, Đồng Tháp, An Giang vẫn nằm trong nhóm các tỉnh có công tác điều hành tốt nhất cả nước.
Các tỉnh "cải thiện" nhiều trong xếp hạng chỉ số CPI của năm nay, ở ngay Top đầu có Vĩnh Phúc từ vị trí số 7 lên vị trí số 3, Long An tăng 15 bậc lên vị trí số 6. Tiếp ngay sau có Bến Tre tăng 7 bậc lên vị trí số 7.
Trong các tỉnh xếp hạng khá, Bình Thuận tăng 8 bậc, Cà Mau cải thiện 11 vị trí. Cũng “bám đuổi” không xa, Hà Nam năm nay có cú nhảy ngoạn mục vượt 20 vị trí lên xếp thứ 26.
Nhóm nghiên cứu kết luận: tại đa số những tỉnh có bước nhảy vọt về vị trí, lãnh đạo tỉnh đã công khai các cam kết pháp lý để cải thiện điểm số PCI, thông qua việc chỉ rõ các điểm yếu và phân công trách nhiệm cho từng sở, ngành, đưa ra các mục tiêu có thể đo lường được.
Các nghiên cứu cũng ghi nhận cơ chế một cửa đã góp phần cải thiện đáng kể thủ tục hành chính, giảm thời gian doanh nghiệp phải chờ để hoàn thành thủ tục đăng ký kinh doanh, thủ tục gia nhập thị trường...
Đáng chú ý, bên cạnh khả năng tiếp cận các văn bản pháp lý đã được cải thiện, tính minh bạch, công khai trong thu thuế cũng tốt hơn, thì chỉ số Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước của năm nay thấp chưa từng có.
Chỉ có 39% số doanh nghiệp tư nhân cho rằng có những ưu đãi rõ rệt đối với doanh nghiệp Nhà nước, trong khi đa phần cho rằng các cấp lãnh đạo đã quan tâm hơn đến doanh nghiệp tư nhân.
Còn những “điểm đen”
Trong Top cuối, với sự có mặt của Bắc Kạn, Thái Nguyên, Nghệ An, Phú Yên, Phú thọ..., các chỉ số về Chính sách phát triển kinh tế tư nhân, Đào tạo lao động tỏ ra kém hơn cả, đặc biệt là khi xét đến từng chỉ tiêu cụ thể.
Từ những đánh giá thực tế, Nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng thời gian doanh nghiệp phải bỏ ra để giải quyết các vấn đề liên quan đến giấy tờ và thủ tục hành chính tiếp tục tăng lên.
Hiện tại, có tới 23% số doanh nghiệp phải bỏ ra trên 10% quỹ thời gian để thực hiện các thủ tục hành chính. Số trả lời có sự cải thiện trong các rào cản về thủ tục là không nhiều.
Các hướng dẫn thủ tục cụ thể về bán hóa đơn giá trị gia tăng, gia hạn chứng chỉ về môi trường, vệ sinh thực phẩm, an toàn cháy nổ... đứng đầu danh sách những ưu tiên cần giải quyết của doanh nghiệp dành cho các nhà hoạch định chính sách.
Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra một tồn tại khá phổ biến là mỗi tỉnh lại có cách hiểu và thực hiện các thủ tục hành chính khác nhau. Cho dù đã có nhiều chương trình cải cách nhưng vẫn chưa thấy chuyển biến đáng kể.
Một điểm nữa cũng được Nhóm nghiên cứu lưu ý là chí phí không chính thức vẫn không cho thấy sự cài thiện trong suốt năm vừa qua, bất chấp nhiều nỗ lực để thay đổi tình hình.
Bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh các tỉnh, thành phố năm 2007 - 2008
Vị trí 2008 | Vị trí 2007 | Tỉnh, thành phố | Điểm | Xếp loại | ||||||||||||||||||||
1 | 2 | Đà Nẵng | 72,18 | Rất tốt | ||||||||||||||||||||
2 | 1 | Bình Dương | 71,76 | Rất tốt | ||||||||||||||||||||
3 | 7 | Vĩnh Phúc | 69,37 | Rất tốt | ||||||||||||||||||||
4 | 3 | Vĩnh Long | 66,97 | Tốt | ||||||||||||||||||||
5 | 9 | Đồng Tháp | 66,64 | Tốt | ||||||||||||||||||||
6 | 21 | Long An | 63,99 | Tốt | ||||||||||||||||||||
7 | 14 | Bến Tre | 62,42 | Tốt | ||||||||||||||||||||
8 | 5 | Lào Cai | 61,22 | Tốt | ||||||||||||||||||||
9 | 6 | An Giang | 61,12 | Tốt | ||||||||||||||||||||
10 | 15 | TT-Huế | 60,71 | Tốt | ||||||||||||||||||||
11 | 4 | Bình Định | 60,67 | Tốt | ||||||||||||||||||||
12 | 8 | Bà Rịa - Vũng Tàu | 60,51 | Tốt | ||||||||||||||||||||
13 | 10 | Tp.HCM | 60,15 | Tốt | ||||||||||||||||||||
14 | 13 | Quảng Nam | 59,97 | Khá | ||||||||||||||||||||
15 | 16 | Đồng Nai | 59,62 | Khá | ||||||||||||||||||||
16 | 20 | Bắc Ninh | 59,57 | Khá | ||||||||||||||||||||
17 | 25 | Bình Thuận | 58,75 | Khá | ||||||||||||||||||||
18 | 29 | Cà Mau | 58,64 | Khá | ||||||||||||||||||||
19 | 18 | Yên Bái | 57,79 | Khá | ||||||||||||||||||||
20 | 26 | Hưng Yên | 57,53 | Khá | ||||||||||||||||||||
21 | 12 | Tiền Giang | 57,27 | Khá | ||||||||||||||||||||
22 | 17 | Cần Thơ | 56,32 | Khá | ||||||||||||||||||||
23 | 24 | Ninh Bình | 56,14 | Khá | ||||||||||||||||||||
24 | 19 | Hậu Giang | 55,36 | Khá | ||||||||||||||||||||
25 | 28 | Trà Vinh | 55,17 | Khá | ||||||||||||||||||||
26 | 46 | Hà Nam | 55,13 | Khá | ||||||||||||||||||||
27 | 22 | Quảng Ninh | 54,70 | Khá | ||||||||||||||||||||
28 | 31 | Thái Bình | 54,27 | Khá | ||||||||||||||||||||
29 | 11 | Sóc Trăng | 54,24 | Khá | ||||||||||||||||||||
30 | 36 | Hải Dương | 54,07 | Khá | ||||||||||||||||||||
31 | 27 | Hà Nội | 53,74 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
32 | 49 | Bình Phước | 53,71 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
33 | 48 | Đắc Lắk | 53,33 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
34 | 32 | Phú Thọ | 52,49 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
35 | 39 | Kiên Giang | 52,25 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
36 | 40 | Khánh Hòa | 52,12 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
37 | 42 | Tuyên Quang | 52,00 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
38 | 30 | Gia Lai | 51,82 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
39 | 23 | Phú Yên | 51,24 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
40 | 47 | Quảng Trị | 50,72 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
41 | 45 | Quảng Ngãi | 50,05 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
42 | 44 | Nam Định | 49,52 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
43 | 53 | Nghệ An | 48,46 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
44 | 51 | Hòa Bình | 48,35 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
45 | 34 | Hà Giang | 48,18 | TrunTrung | ||||||||||||||||||||
46 | 52 | Lâm Đồng | 48,10 | Trung Bình | ||||||||||||||||||||
47 | 55 | Ninh Thuận | 47,82 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
48 | 37 | Hải Phòng | 47,68 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
49 | 57 | Hà Tĩnh | 47,48 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
50 | 33 | Bắc Giang | 47,44 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
51 | 50 | Sơn La | 46,60 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
52 | 38 | Thanh Hóa | 46,22 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
53 | 43 | Thái Nguyên | 46,03 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
54 | 59 | Lạng Sơn | 45,63 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
55 | 41 | Hà Tây (cũ) | 45,09 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
56 | 35 | Tây Ninh | 45,09 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
57 | 54 | Quảng Bình | 44,17 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
58 | 63 | Lai Châu | 43,95 | Tương đối thấp | ||||||||||||||||||||
59 | 58 | Kon Tum | 41,94 | Thấp | ||||||||||||||||||||
60 | 62 | Cao Bằng | 41,02 | Thấp | ||||||||||||||||||||
61 | 64 | Đắk Nông | 41,01 | Thấp | ||||||||||||||||||||
62 | 60 | Bạc Liêu | 40,92 | Thấp | ||||||||||||||||||||
63 | 56 | Bắc Cạn | 39,78 | Thấp | ||||||||||||||||||||
64 | 61 | Điện Biên | 36,39 | Thấp |