Từ tư duy than đá đến mục tiêu mô hình phát triển thích ứng khí hậu của Indonesia

Huy Sơn

07/12/2025, 10:36

Indonesia, nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á và quốc gia đông dân thứ tư thế giới, đang đối diện nghịch lý căn bản của kỷ nguyên biến đổi khí hậu: một mặt là quốc gia “dễ tổn thương khí hậu”, mặt khác lại thuộc nhóm phát thải khí nhà kính cao nhất toàn cầu...

Gian trưng bày của Indonesia tại COP30, giới thiệu các cam kết về giảm phát thải, phục hồi than bùn và phát triển năng lượng tái tạo trong khuôn khổ NDC 2025. Ảnh: UNFCCC Indonesia.
Gian trưng bày của Indonesia tại COP30, giới thiệu các cam kết về giảm phát thải, phục hồi than bùn và phát triển năng lượng tái tạo trong khuôn khổ NDC 2025. Ảnh: UNFCCC Indonesia.

Trong hơn hai thập niên qua, Indonesia đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng 5%/năm- một tốc độ ấn tượng trong bối cảnh thị trường mới nổi. Tuy nhiên, động lực then chốt lại đến từ mô hình phát triển dựa trên khai thác tài nguyên- đốt than, mở rộng dầu cọ, khai khoáng quy mô lớn và phá rừng.

Điều này khiến Indonesia trở thành quốc gia phát thải đứng thứ sáu thế giới, với lượng khí thải CO₂ bình quân 2018-2020 đạt 1,5 tỷ tấn CO₂e, chiếm 3,5% tổng phát thải toàn cầu trong khi GDP bình quân đầu người chỉ ở mức 5.070 USD, thấp hơn nhiều so với mức trung bình thế giới.

Nghịch lý bộc lộ rõ nhất qua những hiện tượng cực đoan ngày càng dày đặc trên khắp quần đảo. Trường hợp lũ lụt lịch sử tại Bali ngay giữa mùa khô chỉ là một trong vô số ví dụ. Khi mùa vụ không còn theo quy luật, người dân địa phương đã phải thốt lên: “Chúng ta không còn dự đoán được mùa nữa”, theo The Guardian.

Điều đáng chú ý là Indonesia đồng thời sở hữu 10% rừng mưa nhiệt đới của thế giới và là quốc gia có tầng than bùn lớn nhất hành tinh. Những hệ sinh thái này giữ lượng carbon khổng lồ nhưng khi bị đốt hoặc bị thoát nước, chúng trở thành nguồn phát thải vượt xa khả năng hấp thụ.

Năm 2015, trong đợt El Niño mạnh, Indonesia thậm chí vượt cả Mỹ về lượng phát thải do cháy rừng và than bùn. Đây là một cảnh báo mạnh mẽ cho tính dễ tổn thương của đất nước này.

"TƯ DUY THAN ĐÁ": CĂN NGUYÊN CỦA SỰ PHỤ THUỘC CẤU TRÚC

Hiện nay, 90% năng lượng Indonesia đến từ nhiên liệu hóa thạch trong đó than đá chiếm 70% sản lượng điện, đồng thời quốc gia này cũng là nhà xuất khẩu than lớn nhất thế giới. Lợi ích kinh tế trước mắt khiến than đá giữ vị trí độc tôn trong khi năng lượng tái tạo chỉ chiếm dưới 15% và gần như không tăng trưởng trong một thập niên qua.

Mặc dù chính phủ tuyên bố áp dụng “lệnh cấm phát triển nhà máy than mới” nhưng các nhà máy điện than phục vụ riêng cho các tổ hợp luyện nickel lại được loại khỏi phạm vi kiểm soát. Chỉ trong 5 năm, công suất các nhà máy này tăng hơn gấp đôi, đạt 22,9 GW vào năm 2024, với hơn 80% là điện than.

Tình trạng này phản ánh một khung tư duy phát triển ưu tiên tăng trưởng công nghiệp nặng trước mắt, chấp nhận chi phí môi trường dài hạn.

Tăng trưởng của Indonesia đã được thúc đẩy bởi các nguồn tài nguyên cường độ carbon cao, đi kèm với chi phí môi trường lớn. Ảnh: The Guardian
Tăng trưởng của Indonesia đã được thúc đẩy bởi các nguồn tài nguyên cường độ carbon cao, đi kèm với chi phí môi trường lớn. Ảnh: The Guardian

Giá than nội địa được giữ ở mức trần để đảm bảo giá điện thấp, tạo ra một nghịch lý: điện than rẻ một cách nhân tạo, khiến năng lượng tái tạo không thể cạnh tranh. Khi điện than chiếm ưu thế, các dự án năng lượng tái tạo gặp rào cản kỹ thuật, tài chính và chính sách.

Vòng lặp phụ thuộc trở nên tự duy trì: giá than thấp dẫn đến điện than rẻ, điện than rẻ khiến tái tạo không thể phát triển, tái tạo yếu khiến hệ thống điện tiếp tục cần đến than. Kết quả là Indonesia không chỉ phụ thuộc về mặt kỹ thuật, mà phụ thuộc ngay trong tư duy chính sách.

Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo tồn thiên nhiên tại Indonesia luôn đầy tính căng thẳng. Dầu cọ- một trong những ngành xuất khẩu lớn nhất chiếm hơn 55% thị phần toàn cầu, đóng góp hàng chục tỷ USD mỗi năm và tạo việc làm cho khoảng 3 triệu lao động.

Tuy nhiên, sự bành trướng của cây dầu cọ đang trở thành động lực chính thúc đẩy phá rừng và chuyển đổi đất. Các chương trình nông nghiệp quy mô lớn, như “food-estate”, cùng các chính sách mở rộng sử dụng nhiên liệu sinh học B35–B40, đã làm tăng áp lực lên rừng mưa nhiệt đới và các tầng than bùn. Dữ liệu vệ tinh năm 2024 cho thấy hàng nghìn điểm cháy mới xuất hiện tại Nam Sumatra và Kalimantan, nhiều khu vực nằm ngay trên những tầng than bùn vốn rất dễ bắt lửa.

Than bùn- hệ sinh thái giữ vai trò như “bể carbon siêu lớn” - khi bị thoát nước để trồng trọt sẽ trở thành vật liệu cực kỳ dễ cháy. Những đám cháy âm ỉ kéo dài nhiều tuần không chỉ thải lượng carbon khổng lồ mà còn gây khói mù xuyên biên giới, tác động đến sức khỏe của hàng chục triệu người.

Các chương trình bảo vệ rừng như REDD+ từng kỳ vọng mang lại hàng tỷ USD nhưng lại vấp phải tranh chấp quyền đất đai, khó khăn trong xác minh giảm phát thải và tính thiếu ổn định của nguồn tài trợ quốc tế. Chuyên gia Tiza Mafira nhận xét: “Bảo vệ rừng không thể dựa vào ý chí của nhà tài trợ mà phải được neo vào chiến lược phát triển quốc gia”.

BƯỚC NGOẶT CHÍNH SÁCH: NDC 2025 VÀ KỲ VỌNG MỚI

Tháng 9/2025, Indonesia công bố Báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) mới với cam kết cao hơn đáng kể so với trước: giảm 31,89% phát thải không điều kiện và 43,2% khi có hỗ trợ quốc tế. Những con số này cho thấy sự chuyển dịch tư duy chính sách, đặc biệt khi quốc gia khẳng định lại mục tiêu FOLU Net Sink 2030- tức lượng hấp thụ carbon từ rừng vượt phát thải từ các hoạt động sử dụng đất.

Các trụ cột chính của NDC bao gồm phục hồi 2 triệu ha than bùn, cải tạo 8,3 triệu ha đất suy thoái và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 19-23% trong cơ cấu năng lượng vào cuối thập kỷ.

Các
trụ cột chính trong NDC 2025 của Indonesia bao gồm phục hồi than bùn, cải tạo đất
suy thoái và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo, thể hiện nỗ lực cân bằng giữa phát
triển và bảo vệ môi trường. Ảnh: UNFCCC Indonesia
Các trụ cột chính trong NDC 2025 của Indonesia bao gồm phục hồi than bùn, cải tạo đất suy thoái và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo, thể hiện nỗ lực cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường. Ảnh: UNFCCC Indonesia

Tuy nhiên, để biến mục tiêu thành hiện thực, Indonesia cần tới 470 tỷ USD đầu tư đến năm 2030- con số vượt xa khả năng ngân sách trong nước. Việc phụ thuộc vào tài chính quốc tế đặt ra bài toán công bằng khí hậu: Indonesia cho rằng các nước giàu phải chịu trách nhiệm tương xứng với phát thải lịch sử, song bản thân Indonesia cũng cần gửi tín hiệu rõ ràng hơn về mong muốn chuyển đổi thực chất.

Khoảng cách giữa mục tiêu và kết quả thực tế ở Indonesia được thể hiện qua ba dạng đứt gãy lớn.

Thứ nhất, khoảng cách thể chế xuất phát từ sự phân mảnh giữa trung ương và địa phương, quy trình phê duyệt phức tạp và khung chính sách chưa đủ nhất quán để thu hút đầu tư năng lượng sạch. JETP- gói hỗ trợ 20 tỷ USD của các nước phát triển bị chậm triển khai vì thiếu lộ trình cụ thể.

Thứ hai, khoảng cách kỹ thuật đến từ hệ thống lưới điện thiếu khả năng tích hợp năng lượng tái tạo. Nhiều đảo lớn dư thừa công suất nhiệt điện than, khiến việc bổ sung năng lượng mặt trời hay gió bị xem là không khả thi. Ngay cả khi muốn chuyển đổi, Indonesia vẫn bị trói bởi những đầu tư than quy mô lớn còn thời hạn vận hành vài thập niên.

Thứ ba, khoảng cách lợi ích, nhóm lợi ích trong ngành than, dầu cọ và luyện khoáng có ảnh hưởng lớn đến hoạch định chính sách. Khi các nhà máy luyện nickel cho xe điện toàn cầu chủ yếu chạy bằng điện than, chuỗi cung ứng “xanh” trở thành nghịch lý: giảm phát thải ở nơi này bằng cách tăng phát thải ở nơi khác.

TÁI CẤU TRÚC MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN ĐỂ CHUYỂN ĐỔI THÀNH CÔNG

Tại COP30 vừa diễn ra, Indonesia là một trong những phái đoàn lớn nhất với hơn 400 đại biểu, mang theo hai mục tiêu chính: khẳng định vai trò của các nước đang phát triển trong việc tái định nghĩa công bằng khí hậu, và thu hút nguồn vốn quốc tế cho mục tiêu FOLU Net Sink cũng như thị trường carbon.

Indonesia kỳ vọng đóng vai trò nổi bật trong “lộ trình Baku-Belém”- sáng kiến nhằm huy động 1.300 tỷ USD mỗi năm cho tài chính khí hậu toàn cầu.

Tuy nhiên, giới quan sát cho rằng hình ảnh lãnh đạo khí hậu chỉ trở nên thuyết phục khi Indonesia có bước tiến rõ rệt trong chuyển đổi thực tế: lộ trình phát triển 100 GW năng lượng tái tạo, kế hoạch loại bỏ dần điện than, chiến lược bảo vệ rừng dài hạn, và cơ chế thị trường carbon bảo đảm lợi ích cho cộng đồng bản địa. Không chỉ là chuyện cam kết mà là năng lực thực thi vốn là điểm yếu kéo dài.

Indonesia là biểu tượng thu nhỏ của các nền kinh tế mới nổi trong kỷ nguyên khí hậu: cần năng lượng rẻ để phát triển nhưng lại là đối tượng chịu tác động trực tiếp nhất của biến đổi khí hậu, đồng thời phải gánh trách nhiệm giảm phát thải để thế giới đạt mục tiêu 1,5°C.

Để chuyển đổi thành công, Indonesia cần tái cấu trúc mô hình phát triển ở cả ba cấp độ.

Ở cấp độ kinh tế- tài khóa, quốc gia phải từng bước dỡ bỏ trần giá than, cải cách trợ giá nhiên liệu hóa thạch và xây dựng cơ chế giá carbon để tạo sân chơi công bằng cho năng lượng tái tạo. Lợi nhuận từ xuất khẩu than cần được tái đầu tư vào hạ tầng điện gió, mặt trời và lưới truyền tải.

Ở cấp độ xã hội- công bằng chuyển đổi, Indonesia phải bảo đảm quyền lợi của cộng đồng bản địa trong các chương trình REDD+, mở rộng chính sách an sinh cho người lao động ngành than và các khu vực ven biển chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu. Một chuyển đổi bền vững chỉ có thể thành công khi người dân không bị bỏ lại phía sau.

Ở cấp độ môi trường- hệ sinh thái, việc tách bạch vùng rừng phòng hộ khỏi các dự án nông nghiệp công nghiệp là điều cấp thiết. Hoạt động thoát nước than bùn cần được dừng lại, thay thế bằng các chương trình phục hồi thủy văn. Giám sát cháy rừng theo thời gian thực bằng vệ tinh cần trở thành công cụ bắt buộc, đi kèm chế tài mạnh đối với các vi phạm.

Indonesia là biểu tượng thu nhỏ của các nền kinh tế mới nổi trong kỷ nguyên khí hậu: cần năng lượng rẻ để phát triển nhưng lại là đối tượng chịu tác động trực tiếp nhất của biến đổi khí hậu, đồng thời phải gánh trách nhiệm giảm phát thải để thế giới đạt mục tiêu 1,5°C. Trong tình thế tiến thoái lưỡng nan ấy, Indonesia cần một tư duy phát triển vượt khỏi mô hình dựa trên than đá và tài nguyên thô, hướng đến nền kinh tế tri thức, công nghệ và tính bền vững.

Nếu Indonesia thành công thì đây sẽ trở thành bằng chứng mạnh mẽ rằng phát triển và bảo vệ khí hậu có thể đồng hành. Nếu thất bại, khoảng cách công bằng khí hậu toàn cầu sẽ ngày càng lớn hơn. Bài toán của Indonesia vì vậy không chỉ là của một quốc gia, mà là phép thử đối với hệ thống kinh tế- khí hậu quốc tế trong thập niên này.

Đọc thêm

Dòng sự kiện

Giá vàng trong nước và thế giới

Giá vàng trong nước và thế giới

VnEconomy cập nhật giá vàng trong nước & thế giới hôm nay: SJC, 9999, giá vàng USD/oz, biến động giá vàng tăng, giảm - phân tích, dự báo & dữ liệu lịch sử.

Bài viết mới nhất

Bài viết mới nhất

Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025

Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025

Sáng kiến Diễn đàn thường niên Kinh tế mới Việt Nam (VNEF) đã được khởi xướng và tổ chức thành công từ năm 2023. VNEF 2025 (lần thứ 3) có chủ đề: "Sức bật kinh tế Việt Nam: từ nội lực tới chuỗi giá trị toàn cầu".

Bài viết mới nhất

VnEconomy Interactive

VnEconomy Interactive

Interactive là một sản phẩm báo chí mới của VnEconomy vừa được ra mắt bạn đọc từ đầu tháng 3/2023 đã gây ấn tượng mạnh với độc giả bởi sự mới lạ, độc đáo. Đây cũng là sản phẩm độc quyền chỉ có trên VnEconomy.

Bài viết mới nhất

Trợ lý thông tin kinh tế Askonomy - Asko Platform

Trợ lý thông tin kinh tế Askonomy - Asko Platform

Trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo, đặc biệt là generative AI, phát triển mạnh mẽ, Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy đã tiên phong ứng dụng công nghê để mang đến trải nghiệm thông tin đột phá với chatbot AI Askonomy...

Bài viết mới nhất

Chuyển đổi xanh: Xu hướng tất yếu trong logistics

Chuyển đổi xanh: Xu hướng tất yếu trong logistics

Thị trường bán dẫn toàn cầu qua một biểu đồ

Thị trường bán dẫn toàn cầu qua một biểu đồ

An toàn hồ đập: Chuyển từ ứng phó thủ công sang quản trị thông minh

An toàn hồ đập: Chuyển từ ứng phó thủ công sang quản trị thông minh

Asko AI Platform

Askonomy AI

...

icon

Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?

Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính:

VnEconomy