Ủy ban Kinh tế đề nghị giải trình rõ về nguồn vốn 25.500 tỷ đồng đầu tư cao tốc Gia Nghĩa - Chơn Thành
Chính phủ trình Quốc hội chủ trương đầu tư dự án cao tốc Bắc - Nam phía Tây, đoạn Gia Nghĩa - Chơn Thành có chiều dài 128,8 km theo hình thức PPP, với tổng mức đầu tư khoảng 25.540 tỷ. Nhất trí đầu tư dự án song Ủy ban Kinh tế Quốc hội đề nghị làm rõ nguồn vốn thực hiện dự án và tránh phải điều chỉnh sang đầu tư công...
Ngày 22/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 7, Quốc hội nghe Chính phủ và cơ quan thẩm tra của Quốc hội báo cáo về chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Bắc - Nam phía Tây đoạn Gia Nghĩa (Đắk Nông) - Chơn Thành (Bình Phước).
ÁP DỤNG CƠ CHẾ ĐẶC THÙ TRIỂN KHAI DỰ ÁN
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày tờ trình về chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Bắc - Nam phía Tây đoạn Gia Nghĩa (Đắk Nông) - Chơn Thành (Bình Phước), Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng, cho biết theo quy hoạch, đường cao tốc Gia Nghĩa - Chơn Thành thuộc tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Tây.
Đây là trục giao thông quan trọng, kết nối vùng Tây Nguyên với vùng Đông Nam Bộ, vùng Tây Nam Bộ và TP. Hồ Chí Minh. Việc đầu tư cao tốc Gia Nghĩa - Chơn Thành sẽ giải quyết điểm nghẽn về hạ tầng giao thông, tạo không gian phát triển mới, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh khu vực vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.
Theo tờ trình, để phát huy tối đa hiệu quả đầu tư, phù hợp với khả năng cân đối, thu xếp nguồn vốn, bảo đảm hiệu quả tài chính, Chính phủ đề xuất: giai đoạn phân kỳ đầu tư dự án với chiều dài khoảng 128,8 km, trong đó, đi qua địa phận tỉnh Đắk Nông 27,8 km, qua địa phận tỉnh Bình Phước 101 km, bao gồm cả 2 km kết nối với đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa.
Quy mô đầu tư phân kỳ 4 làn xe hoàn chỉnh song giải phóng mặt bằng thực hiện một lần theo quy mô quy hoạch (6 làn xe).
Cao tốc Gia Nghĩa - Chơn Thành được thiết kế phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về đường bộ cao tốc, bảo đảm tiêu chuẩn đường cao tốc 4 làn xe hoàn chỉnh, tốc độ thiết kế 100 - 120 km/h.
Dự án được đề xuất chia thành 05 dự án thành phần, trong đó, dự án thành phần 1 (đường cao tốc) đầu tư theo phương thức PPP (loại hợp đồng BOT). Các dự án thành phần 2, 3, 4, 5 thực hiện giải phóng mặt bằng, xây dựng đường gom và cầu vượt ngang qua địa phận tỉnh Đắk Nông, tỉnh Bình Phước triển khai theo hình thức đầu tư công.
Về sơ bộ tổng mức đầu tư, dự án được tính toán, xác định tuân thủ quy định của pháp luật về xây dựng, pháp luật về quản lý chi phí đầu tư xây dựng. Sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 25.540 tỷ đồng, bao gồm vốn nhà nước, vốn nhà đầu tư.
Hướng tuyến cơ bản phù hợp với quy hoạch được duyệt, điều chỉnh cục bộ hướng tuyến một số đoạn để khắc phục điều kiện địa hình, thuận lợi trong thi công và khai thác, tạo không gian phát triển mới cho địa phương.
Để đảm bảo kết nối và phát triển kinh tế - xã hội, trong phạm vi dự án dự kiến đầu tư 11 nút giao liên thông (giai đoạn phân kỳ đầu tư 5 nút giao, giai đoạn hoàn chỉnh đầu tư 6 nút giao còn lại). Đồng thời, bố trí đầy đủ hệ thống cầu vượt ngang, đường gom, hầm chui dân sinh để bảo đảm kết nối, phục vụ nhu cầu đi lại của người dân, hạn chế chia cắt cộng đồng.
"Để đảm bảo tính khả thi trong triển khai thực hiện dự án, đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành đưa dự án vào khai thác, Chính phủ kiến nghị Quốc hội cho áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù để triển khai dự án", Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải nêu rõ.
Theo đó, bố trí nguồn vốn ngân sách trung ương để thực hiện dự án; cho phép người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định việc chỉ định thầu với các gói thầu tư vấn, gói thầu thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư…
BẢO ĐẢM TÍNH KHẢ THI, TRÁNH CHUYỂN SANG ĐẦU TƯ CÔNG
Thẩm tra báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Bắc - Nam phía Tây đoạn Gia Nghĩa (Đắk Nông) - Chơn Thành (Bình Phước), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết Ủy ban Kinh tế nhất trí sự cần thiết đầu tư dự án nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Việc đầu tư dự án sẽ từng bước hoàn thành mạng lưới cao tốc theo quy hoạch, mở ra không gian phát triển mới cho các địa phương và tăng cường liên kết vùng nói chung và liên kết nội vùng nói riêng, tạo động lực, sức lan tỏa, thuận lợi kết nối với Cảng hàng không quốc tế Long Thành và cảng Cái Mép - Thị Vải, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Về nguồn vốn, đối với vốn ngân sách trung ương khoảng 10.536,5 tỷ đồng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết có ý kiến cho rằng việc bố trí 1.500 tỷ đồng từ nguồn dự phòng của kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 là không khả thi. Dự án dự kiến đến hết năm 2026 mới hoàn thành, đề nghị Chính phủ giải trình làm rõ việc bố trí nguồn vốn để thực hiện dự án trong năm 2026.
"Đối với vốn ngân sách địa phương, có ý kiến cho rằng, hai địa phương này hiện chưa tự cân đối được ngân sách, hằng năm vẫn nhận hỗ trợ từ ngân sách trung ương, do vậy việc cam kết bố trí vốn ngân sách địa phương như dự kiến sẽ rất khó khăn, đề nghị phải có giải pháp cụ thể hơn", ông Thanh lưu ý.
Lưu ý với vốn do nhà đầu tư thu xếp khoảng 12.770 tỷ đồng, chiếm 50% sơ bộ tổng mức đầu tư dự án (chiếm 65% sơ bộ tổng mức đầu tư dự án thành phần 1 theo phương thức đối tác công tư), để bảo đảm tính khả thi cho dự án, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ cần thống nhất chặt chẽ với nhà đầu tư quan tâm trong việc thu xếp vốn cho dự án, tránh phải điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án từ đầu tư theo phương thức PPP sang đầu tư công.
Đồng thời, bổ sung giải pháp cụ thể hơn đối với phương án xử lý các dự án giao thông BOT song hành để Quốc hội có cơ sở xem xét, quyết định.
Về phương án tài chính, theo Tờ trình số 215, lãi suất vốn vay dự án là 10,7%, do đó, có ý kiến đề nghị làm rõ sự phù hợp lãi suất vốn vay với quy định về cơ chế quản lý tài chính dự án đầu tư theo phương thức PPP tại Nghị định số 28/2021/NĐ-CP.
Bên cạnh đó, việc tính toán phương án tài chính của dự án được lập trên cơ sở xác định mức giá tối đa cho dịch vụ sử dụng đường bộ theo chặng. Do đó, có thể vượt quá khả năng chi trả của người tham gia giao thông tại khu vực này, làm giảm lưu lượng xe và ảnh hưởng đến phương án tài chính, tính khả thi, hiệu quả của dự án, vì vậy đề nghị bổ sung làm rõ.
Về kiến nghị các cơ chế tổ chức thực hiện, Uỷ ban Kinh tế nhận thấy các cơ chế, chính sách này đã được Quốc hội cho phép áp dụng đối với dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội, do đó đề xuất của Chính phủ là có cơ sở.
Về kiến nghị các cơ chế chỉ định thầu, để đẩy nhanh tiến độ dự án thì việc kiến nghị cho phép áp dụng các cơ chế chỉ định thầu là phù hợp, thực tế thời gian qua Quốc hội đã cho phép áp dụng cơ chế này đối với một số dự án.
Tuy nhiên, Uỷ ban Kinh tế đề nghị cần có các giải pháp trong quá trình tổ chức thực hiện bảo đảm công khai, minh bạch, không để trục lợi chính sách, thất thoát, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm.