5 dấu hiệu sắp xảy ra suy thoái kinh tế toàn cầu
Những tín hiệu cho thấy nền kinh tế toàn cầu đang tiến sát bờ vực suy thoái ngày càng trở nên rõ ràng. Giờ đây câu hỏi không còn là “liệu suy thoái có xảy ra không”, mà thay vào đó là “khi nào”...
Vài tuần vừa qua, “nhịp độ nhấp nháy” của các tín hiệu đỏ này tăng nhanh khi thị trường toàn cầu đau đầu với sức ép ngày càng lớn từ các động thái thắt chặt chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Ngân hàng trung ương Mỹ vừa nâng lãi suất 0,75 điểm phần trăm lần thứ ba liên tiếp và là lần tăng thức 5 liên tục từ tháng 3 đến nay để hạ nhiệt lạm phát kỷ lục 40 năm trong nước, dù việc này có thể đẩy nền kinh tế lớn nhất thế giới rơi vào suy thoái. Trên thực tế, Mỹ đã suy thoái về mặt kỹ thuật khi GDP giảm hai quý liên tiếp. Người tiêu dùng và doanh nghiệp ở các quốc gia cách Mỹ hàng nghìn cây số cũng đang chịu ảnh hưởng lớn.
Theo một mô hình khả năng của công ty nghiên cứu Ned Davis, ở thời điểm hiện tại, khả năng kinh tế toàn cầu rơi vào một cuộc suy thoái là 98,1%. Trước đây, mô hình này chỉ phản ánh nguy cơ suy thoái cao như thế này hai lần trong những đợt suy giảm nghiêm trọng khá của kinh tế thế giới, gần nhất vào năm 2020 - khi Covid mới trở thành đại dịch - và trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009.
Dưới đây là 5 dấu hiệu cho thấy nền kinh tế thế giới đang tiến sát bờ vực suy thoái:
ĐỒNG USD MẠNH LÊN
Đồng bạc xanh của Mỹ vốn có sức ảnh hưởng lớn tới kinh tế toàn cầu và nền tài chính quốc tế. Hiện tại, giá đồng USD đang mức cao nhất trong vòng hai thập kỷ trở lại đây và nguyên nhân chính nằm ở các quyết định của Fed.
Khi Fed bắt đầu chu kỳ thắt chặt chính sách vào tháng 3, đồng USD trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư trên khắp thế giới.
Trong mọi điều kiện kinh tế, USD được xem là một kênh lưu trữ giá trị an toàn. Còn trong điều kiện kinh tế bất ổn – như trong đại dịch Covid hoặc chiến tranh ở Đông Âu, giới đầu tư càng có thêm động lực để mua vào USD.
Dù đồng USD mạnh lên mang lại lợi ích đáng kể cho người Mỹ du lịch nước ngoài, điều này khiến hầu hết các quốc gia trên thế giới lao đao.
Tỷ giá đồng Bảng Anh, Euro, Nhân dân tệ, Yên cùng nhiều đồng tiền khác so với USD đều giảm mạnh, khiến cho các quốc gia phải nhập khẩu hàng hóa thiết yếu, như lương thực, nhiên liệu, với giá đắt đỏ hơn. Để ứng phó với tình hình, ngân hàng trung ương các nước đồng loạt tăng lãi suất và có biện pháp mạnh tay để cứu đồng nội tệ. Tất cả những điều này diễn ra trong bối cảnh các nền kinh tế đang chịu áp lực lạm phát và giá năng lượng leo thang do cuộc chiến tranh Nga-Ukraine.
Về phía Mỹ, đồng USD mạnh lên đang gây ra sự bất ổn trên Phố Wall vì nhiều công ty trong S&P 500 có hoạt động kinh doanh khắp thế giới. Theo một ước tính của Morgan Stanley, mỗi khi chỉ số Dollar Index, đo sức mạnh của USD với một rổ gồm 6 đồng tiền lớn khác, tăng 1%, thì lợi nhuận của các công ty trong S&P 500 giảm 0,5%.
ĐỘNG LỰC KINH TẾ CỦA MỸ SUY YẾU
Động lực số một của nền kinh tế lớn nhất thế giới là tiêu dùng. Tuy nhiên, người tiêu dùng Mỹ đang đối mặt nhiều khó khăn. Sau hơn một năm hầu như mọi hàng hóa đều tăng giá trong khi mức tăng lương không theo kịp, người tiêu dùng nước này đang phải thắt chặt hầu bao.
“Lạm phát đang khiến người tiêu dùng Mỹ phải tiêu đến tiền tiết kiệm của mình”, ông Gregory Daco, nhà kinh tế trưởng tại EY-Parthenon – bộ phận tư vấn chiến lược của hãng kiểm toán Ernst & Young, viết trong một cáo cáo cuối tuần trước, được hãng tin CNN trích dẫn. “Tỷ lệ tiết kiệm cá nhân tháng 8 tại Mỹ vẫn chỉ ở mức chỉ 3,5%, sát mức thấp nhất kể từ năm 2008 và thấp hơn tỷ lệ khoảng 9% trước đại dịch”.
Ngoài ra, một nguyên nhân nữa khiến người tiêu dùng Mỹ giảm chi tiêu lại bắt nguồn từ Fed. Lãi suất ở Mỹ đang tăng nhanh chưa từng thấy trong lịch sử. Điều này khiến lãi suất vay thế chấp mua nhà lên mức cao nhất trong hơn một thập kỷ trở lại đây và đẩy nhiều người vay mu nhà lâm vào cảnh khó khăn. Người Mỹ đang cùng lúc chịu hai đòn giáng: Lãi suất đi vay và giá cả hàng hóa tăng lên, đặc biệt là các mặt hàng, dịch vụ thiết yếu như thực phẩm và nhà ở.
HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP MỸ CHỮNG LẠI
Trong phần lớn thời gian đại dịch diễn ra, hoạt động của nhiều ngành công nghiệp Mỹ vẫn tăng trưởng bùng nổ nhờ sức mua của người tiêu dùng trong nước, kể cả khi lạm phát cao ăn mòn lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều này không kéo dài lâu.
Vào giữa tháng 9, một công ty có hoạt động kinh doanh đóng vai trò như một chỉ báo cho xu hướng kinh tế toàn cầu đã gây sốc cho nhà đầu tư. FedEx, công ty vận tải hoạt động tại hơn 200 quốc gia, đã bất ngờ điều chỉnh dự báo kết quả kinh doanh, đồng thời cảnh báo rằng nhu cầu đang suy yếu và lợi nhuận của công ty có thể giảm hơn 40%.
Trong một cuộc phỏng vấn, CEO của FedEx nói rằng sự suy giảm trong hoạt động vận tải là dấu hiệu cho thấy suy thoái kinh tế toàn cầu đang rất cận kề.
Không chỉ FedEx, đầu tuần trước, cổ phiếu Apple cũng lao dốc sau khi Bloomberg đưa tin nói rằng công ty này sẽ hủy bỏ kế hoạch tăng sản lượng iPhone 14 do nhu cầu thấp hơn dự báo.
Bên cạnh đó, hàng năm, đây là thời điểm các doanh nghiệp thường tăng cường tuyển nhân sự chuẩn bị cho kỳ nghỉ lễ, nhưng năm nay hầu hết doanh nghiệp duy trì tâm lý thận trọng để quan sát tình hình.
“Các doanh nghiệp đang hoãn lại các kế hoạch và chờ xem tình hình”, nhà kinh tế trưởng Julia Pollak của ZipRecruiter, nhận xét.
CHỨNG KHOÁN MỸ RƠI SÂU VÀO “THỊ TRƯỜNG GẤU”
Những tháng qua, Phố Wall chao đảo và đang trên đà có năm tồi tệ nhất kể từ 2008. Điều này ngược lại hoàn toàn với năm 2021, khi S&P 500 tăng 27% nhờ chính sách tiền tệ nới lỏng của Fed. Xu hướng tăng chỉ kéo dài tới đầu năm 2022, trước khi lạm phát khiến nhà đầu tư lo lắng và Fed bắt đầu tăng lãi suất, cộng thêm kết thúc chương trình mua lại trái phiếu.
Theo đó, cả ba chỉ số chính của chứng khoán Mỹ đều đã rơi sâu vào "thị trường gấu" (thị trường đầu cơ giá xuống) sau khi giảm ít nhất 20% so với mức đỉnh gần nhất.
Thị trường trái phiếu, thường là một “kênh trú ẩn” an toàn khi giá trị cổ phiếu và các tài sản khác giảm, cũng rung lắc mạnh.
“Tội đồ” của tất cả những điều này lại là Fed. Lạm phát cùng với lãi suất tăng đã kéo giá trái phiếu xuống và khiến lợi suất trái phiếu tăng lên. Ngày 28/9, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm có lúc vượt 4%, mức cao nhất trong 14 năm qua. Theo sau đó lại là một đợt giảm mạnh do phản ứng với sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) vào thị trường trái phiếu nước này.
Lợi suất trái phiếu của Khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) cũng đang tăng đột biến khi các ngân hàng trung ương khu vực này đồng loạt “nối gót” Fed nâng lãi suất để hỗ trợ đồng nội tệ của mình.
CHIẾN TRANH, MÂU THUẪN CHÍNH SÁCH
Một dấu hiệu khác cho thấy suy thoái kinh tế toàn cầu sắp xảy ra là sự mâu thuẫn trong chính sách tiền tệ và tài khóa ở một số nền kinh tế lớn. Theo CNN, trên thế giới hiện không nơi nào có sự xung đột về kinh tế, tài chính và chính trị rõ ràng hơn ở Anh.
Cũng giống như phần lớn các nước khác trên thế giới, Anh đang chật vật đối mặt giá cả leo thang mà nguyên nhân chủ yếu là cú sốc đại dịch, theo sau là gián đoạn thương mại do chiến tranh Nga-Ukraine. Khi phương Tây giảm mua khí đốt tự nhiên Nga, giá năng lượng tại châu Âu tăng vọt, còn nguồn cung bị siết lại.
Tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi hơn một tuần trước, chính quyền của tân Thủ tướng Anh Liz Truss thông báo kế hoạch giảm thuế lớn nhất 50 năm. Kế hoạch này vấp phải sự chỉ trích của các nhà kinh tế bởi nó được đưa ra giữa lúc lạm phát ở Anh đang chạm ngưỡng kỷ lục.
Chính phủ của bà Truss nói rằng giảm thuế để khuyến khích đầu tư và tiêu dùng nội địa, đồng thời kích thích tăng trưởng kinh tế (về mặt lý thuyết). Tuy nhiên, để thực hiện chương trình, Chính phủ sẽ phải vay nợ và điều này gây áp lực lớn với nền kinh tế vốn đang đối mặt nhiều bất ổn.
Quyết định này đã gây hoảng loạn trên thị trường tài chính toàn cầu, khiến Ngân hàng trung ương Anh (BOE) rơi vào tình thế bế tắc giữa kế hoạch kích thích tăng trưởng của Chính phủ và nhiệm vụ chống lạm phát. Trái phiếu Anh đã bị bán tháo trên toàn cầu, đẩy tỷ giá đồng bảng Anh so với USD xuống mức thấp nhất gần 230 năm trở lại đây - khoảng thời gian kể từ năm 1792, khi Quốc hội Mỹ đưa đồng USD trở thành đồng tiền pháp định của nước này.
Để xoa dịu thị trường, BOE đã nhanh chóng có biện pháp can thiệp với một đợt mua lại trái phiếu kéo dài hơn 2 tuần. Dù tình hình đã ổn định trở lại, vấn đề cốt lõi vẫn chưa được giải quyết.
Với người dân Anh, tình càng thêm khó khăn khi vừa phải chịu cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt với lãi suất 10% - mức cao nhất trong nhóm 7 nước công nghiệp phát triển (G7) - vừa đối mặt lãi suất đi vay cao hơn. Hàng triệu chủ sở hữu nhà ở nước này đang phải thanh toán tiền vay thế chấp mua nhà nhiều hơn hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bảng Anh.
Nhiều nhà kinh tế và chuyên gia dự báo suy thoái kinh tế toàn cầu có thể xảy ra trong năm 2023, nhưng khó có thể dự báo về mức độ nghiêm trọng cũng như độ dài của cuộc suy thoái này. Nhưng một điều chắc chắn là mọi cuộc suy thoái nào đều gây đau thương và không phải nền kinh tế nào cũng có sức chống chịu mạnh mẽ như Mỹ.
“Trong những tháng tới, chúng ta sẽ ngụp lặn trong vùng nước bất định”, các nhà kinh tế học tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) viết trong một báo cáo tuần trước. “Triển vọng kinh tế toàn cầu và phần lớn dân số thế giới giờ đây rất mờ mịt. Những thách thức này sẽ đo sức chống chịu của các nền kinh tế và các xã hội”.
Tuy nhiên, nhóm này cũng nhấn mạnh rằng cuộc khủng hoảng sẽ là động lực cho những thay đổi đáng giá để cải thiện đời sống và giúp cho các nền kinh tế trở nên mạnh mẽ hơn.
“Các doanh nghiệp phải thay đổi. Đây đã là một nhiệm vụ xuất hiện kể từ khi Covid-19 trở thành đại dịch”, bà Rima Bhatia, cố vấn kinh tế tại Gulf International Bank, phát biểu. “Doanh nghiệp không thể tiếp tục con đường mà họ từng đi trước đây nữa. Đi liền với khủng hoảng luôn là những cơ hội”.