Dự báo lượng hàng qua cảng biển tăng vọt, cần 351.500 tỷ đồng nâng cấp hạ tầng đến năm 2030
Bộ Giao thông vận tải vừa trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tổng nhu cầu đầu tư hạ tầng hàng hải khoảng 351.500 tỷ đồng...
Theo Bộ Giao thông vận tải, việc triển khai Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển nhằm cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển, là điều cần thiết để hệ thống cảng biển phát triển đồng bộ, liên tục trong quy hoạch tổng thể, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa đất nước hội nhập sâu rộng và đủ sức cạnh tranh trong hoạt động cảng biển với các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh.
BỔ SUNG NHU CẦU HÀNG TRUNG CHUYỂN QUỐC TẾ
Tại tờ trình, Bộ Giao thông vận tải dự báo hàng hóa và hành khách thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam đều tăng so với Quyết định 1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Cụ thể, với hàng container, điều chỉnh tăng khoảng 7,3-8,3 triệu Teu, tập trung ở nhóm cảng biển số 1 tăng khoảng 0,9-1,8 triệu Teu và nhóm cảng biển số 4 tăng khoảng 5-6,3 triệu Teu.
Với hàng khô, điều chỉnh tăng khoảng 145 -170 triệu tấn, trong đó hàng phục vụ các dự án nhà máy sản xuất chế biến alumin, titan tăng 20-31,5 triệu tấn. Hàng hóa của các dự án nhà máy/khu liên hợp gang thép tăng 80-115 triệu tấn và than tăng 10,7-17 triệu tấn do cập nhật phương pháp thống kê hàng than đến và rời tại các khu chuyển tải (thực tế lượng than tiêu thụ giảm 33,4-39,2 triệu tấn do dừng triển khai một số dự án nhiệt điện than).
Đối với hàng lỏng, khí, tổng lượng hàng thay đổi không đáng kể nhưng cơ cấu đối với từng loại hàng có sự thay đổi so với trước đây. Theo đó, điều chỉnh tăng lượng hàng LNG khoảng 18,9-24,4 triệu tấn, giảm 38 triệu tấn hàng xăng dầu của 3 dự án nhà máy lọc dầu. Cùng với đó, tăng khoảng 11,7-18 triệu tấn từ các dự án kho dự trữ xăng dầu và các dự án khác tại các địa phương.
Riêng với hàng trung chuyển quốc tế, bổ sung nhu cầu hàng hóa trung chuyển quốc tế thông qua bến cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ khoảng 3,6 triệu Teu năm 2030 và bổ sung nhu cầu hàng hóa trung chuyển quốc tế thông qua khu bến Liên Chiểu khoảng 0,5 triệu Teu năm 2030.
Bộ Giao thông vận tải đề xuất với các cảng biển khác có chức năng trung chuyển container quốc tế quy hoạch theo hướng mở phát triển khi có nhu cầu như Lạch Huyện, Nam Đồ Sơn (Hải Phòng), Vân Phong (Khánh Hòa), Cần Giờ (Hồ Chí Minh), Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu)..., khối lượng hàng trung chuyển container quốc tế sẽ được xác định cụ thể khi quyết định chủ trương đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư tham gia dự án.
Ngoài ra, quy hoạch cũng điều chỉnh tăng dự báo tổng lượt hành khách thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam từ 7,3-8,5 triệu lượt khách/năm so với Quy hoạch 1579.
Trong đó, hành khách từ bờ ra đảo, khách du lịch biển đảo tăng thêm từ 4,5-5 triệu lượt hành khách và bổ sung lượng hành khách thông qua các bến du thuyền từ 2,8-3,5 triệu lượt khách.
Dự báo hành khách thông qua cảng biển đến năm 2030 đạt từ 17,4-18,8 triệu lượt hành khách, tăng trưởng 14,3-15,4%/năm giai đoạn 2022-2030. Việc điều chỉnh này căn cứ định hướng, mục tiêu phát triển ngành du lịch trong Chiến lược Marketing du lịch Việt Nam đến năm 2030.
NHỮNG DỰ ÁN HẠ TẦNG ƯU TIÊN ĐƯỢC NÂNG CẤP
Theo tờ trình, đến năm 2030, tổng nhu cầu sử dụng đất cho cảng biển khoảng 18.300ha (chưa bao gồm diện tích các khu công nghiệp, logistics… gắn liền với cảng) và tổng nhu cầu sử dụng mặt nước khoảng 606.000ha (chưa bao gồm diện tích vùng nước khác trong phạm vi quản lý không bố trí công trình hàng hải 707.000ha.
Tổng nhu cầu đầu tư khoảng 351.500 tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn đến 2025 cần khoảng 123.689 tỷ đồng, gồm nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng hàng hải công cộng khoảng 10.246 tỷ đồng và nhu cầu vốn đầu tư cho bến cảng khoảng 113.443 tỷ đồng (chỉ gồm các bến cảng kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hóa).
Giai đoạn 2026-2030 cần khoảng 227.811 tỷ đồng, gồm nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng hàng hải công cộng khoảng 66.616 tỷ đồng và nhu cầu vốn đầu tư cho bến cảng khoảng 161.195 tỷ đồng.
Trước đó, theo Quy hoạch 1579 được ban hành năm 2021, nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển đến năm 2030 chỉ khoảng 313.000 tỷ đồng (mới bao gồm các bến cảng kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hóa), được huy động chủ yếu từ nguồn ngoài ngân sách, vốn doanh nghiệp và các nguồn vốn hợp pháp khác. Nguồn vốn ngân sách nhà nước tập trung cho hạ tầng hàng hải công cộng; khu vực trọng điểm, tạo sức lan tỏa và thu hút đầu tư.
Các nhiệm vụ ưu tiên đầu tư đến năm 2030 cũng bao gồm cả kết cấu hạ tầng hàng hải công cộng và hạ tầng cảng biển.
Cụ thể, với kết cấu hạ tầng hàng hải công cộng, ưu tiên đầu tư nâng cấp tuyến luồng như: luồng hàng hải Vũng Tàu - Thị Vải phục vụ tàu đến 200.000 tấn giảm tải (18.000 Teu); dự án luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu - giai đoạn 2 cho tàu đến 20.000 tấn giảm tải; nâng cấp luồng vào cảng Nghi Sơn cho tàu đến 50.000 tấn, luồng Thọ Quang cho tàu đến 10.000 tấn, luồng Quy Nhơn cho tàu đến 50.000 tấn và các tuyến luồng khác.
Ngoài ra, ưu tiên đầu tư các đèn biển tại các đảo, quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, kết cấu hạ tầng phục vụ công tác bảo đảm an toàn hàng hải; xây dựng Đài thông tin duyên hải, Trung tâm tìm kiếm cứu nạn, Đại diện Cảng vụ hàng hải Nha Trang tại Trường Sa.
Đồng thời, đầu tư xây dựng công trình đê chắn sóng cảng Vũng Áng, Hà Tĩnh, Chân Mây; hạ tầng công cộng bến cảng ngoài khơi Trần Đề. Cải tạo, nâng cấp hệ thống đê chắn cát luồng Cửa Việt, Cửa Gianh; chỉnh trị luồng hàng hải Diêm Điền, Văn Úc.
Các dự án như đầu tư và cải tạo, nâng cấp luồng Cẩm Phả, luồng sông Văn Úc cho tàu 10.000 tấn, luồng sông Chanh cho tàu đến 50.000 tấn, luồng Ba Ngòi, luồng Hòn La, luồng hàng hải qua cửa Trần Đề và các tuyến luồng khác; Hệ thống quản lý hàng hải tàu biển (VTS) tại luồng Hòn Gai - Cái Lân, luồng cho tàu trọng tải lớn vào sông Hậu cũng được đề xuất trong các hạng mục ưu tiên đầu tư.
Đối với các bến cảng biển, ưu tiên đầu tư và đưa vào khai thác các bến 3, 4, 5, 6, 7, 8 tại khu bến Lạch Huyện; Bến khởi động tại khu bến Liên Chiểu, các bến cảng chính thuộc cảng biển loại I; Các bến khách quốc tế gắn với các vùng động lực phát triển du lịch; Các bến cảng quy mô lớn gắn trung tâm điện lực than, khí, xăng dầu, luyện kim; Các bến phục vụ khu kinh tế ven biển.
Ngoài ra, kêu gọi đầu tư các bến cảng tại các cảng biển tiềm năng Vân Phong và Trần Đề. Đầu tư bến khởi động khu bến Nam Đồ Sơn (Hải Phòng), các bến cảng tại khu vực Cái Mép Hạ và hạ lưu Cái Mép Hạ, bến cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ (TP.HCM) và khu bến Trần Đề (Sóc Trăng).
Để thực hiện quy hoạch, Bộ Giao thông vận tải đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý đầu tư, khai thác kết cấu hạ tầng hàng hải công cộng, chuyên dùng từ nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải, khai thác có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu phát triển chung của các cảng biển.
Đồng thời, xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách sử dụng nguồn thu từ việc cho thuê khai thác kết cấu hạ tầng bến cảng biển được đầu tư bằng nguồn ngân sách nhà nước để xây dựng kết cấu hạ tầng hàng hải công cộng.
Ngoài ra, rà soát, sửa đổi và ban hành chính sách khuyến khích đầu tư cảng biển có mô hình cảng xanh, thông minh, sử dụng công nghệ và nhiên liệu sạch. Ứng dụng công nghệ tiên tiến, giảm phát thải theo quy định. Nghiên cứu và phát triển công nghệ sử dụng điện, năng lượng xanh, giảm phát thải. Nâng cao khả năng thu gom nước thải, rác thải tại các cảng bến, cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu, phương tiện vận tải thích ứng với biến đổi khí hậu và cam kết phát thải ròng về "0" vào 2050...