
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Tư, 12/11/2025
Nguyễn Thuấn
22/06/2025, 11:13
Với lợi thế về diện tích rừng tự nhiên lớn, tỉnh Thanh Hoá đã ghi nhận những kết quả bước đầu từ chương trình thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA), tạo nguồn lực tài chính hỗ trợ bảo vệ rừng, cải thiện sinh kế người dân và góp phần vào nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu...
Sở Nông nghiệp và Môi trường Thanh Hóa vừa tổ chức hội nghị tổng kết chương trình thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA), nhằm đánh giá hiệu quả tài chính và môi trường từ hoạt động quản lý rừng bền vững một trong những nền tảng thúc đẩy kinh tế xanh tại địa phương.
Với tổng diện tích hơn 647.000 ha rừng tự nhiên, tỉnh Thanh Hóa đang sở hữu tiềm năng lớn về cung cấp tín chỉ carbon, trở thành một trong sáu địa phương đầu tiên được lựa chọn triển khai Nghị định số 107/2022/NĐ-CP về chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ.
Theo báo cáo tại hội nghị, thông qua công tác rà soát, tỉnh đã xác định được hơn 393.000 ha rừng tự nhiên thuộc quyền quản lý của 39 đơn vị chủ rừng nằm trong diện được chi trả và hưởng lợi từ chương trình ERPA. Từ nguồn thu dự kiến khoảng 199,3 tỷ đồng/năm, Thanh Hóa đã giải ngân được 107,68 tỷ đồng, đạt 54,1% kế hoạch được duyệt. Khoản tài chính này được sử dụng để hỗ trợ công tác quản lý rừng, chi trả cho các tổ chức và cá nhân có tham gia bảo vệ rừng theo đúng quy định.
Tuy nhiên, một trong những điểm đáng lưu ý là tỷ lệ các chủ rừng hoàn thiện kế hoạch tài chính còn chưa cao. Mới có 27/39 đơn vị hoàn tất lập và trình kế hoạch năm với tổng kinh phí được duyệt là 22,85 tỷ đồng. Số tiền này đang được sử dụng chủ yếu vào các hoạt động duy trì bảo vệ rừng, đầu tư sinh kế bền vững và cải thiện hạ tầng cơ sở tại các khu dân cư nằm trong vùng hưởng lợi từ ERPA.
Đánh giá tại hội nghị cho thấy, sau 3 năm triển khai, chương trình ERPA bước đầu đã mang lại những kết quả tích cực, tạo thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế xanh tại các vùng miền núi của Thanh Hóa. Đặc biệt, chương trình góp phần giảm thiểu các hành vi xâm hại rừng, thúc đẩy việc bảo vệ rừng hiệu quả hơn nhờ cơ chế tài chính rõ ràng và có tính khuyến khích.
Đối với cộng đồng dân cư sinh sống gần rừng đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa chương trình ERPA không chỉ hỗ trợ trực tiếp nguồn lực tài chính mà còn giúp tạo sinh kế ổn định, nâng cao nhận thức về vai trò của rừng trong phòng chống thiên tai và biến đổi khí hậu. Với các hộ gia đình tham gia bảo vệ rừng, ERPA trở thành một "nguồn thu xanh" có tính bền vững, đồng thời mang lại cơ hội tiếp cận với các dự án phát triển nông lâm kết hợp.
Đối với các đơn vị chủ rừng là tổ chức, khoản chi trả từ ERPA có vai trò như "trợ lực" bổ sung ngân sách bảo vệ rừng, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển độ che phủ rừng – một chỉ tiêu then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế bền vững và giảm phát thải của tỉnh Thanh Hóa.
Dù đạt được những kết quả tích cực, các đại biểu cũng thẳng thắn nhìn nhận còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Một số chủ rừng đặc biệt là chính quyền cấp xã có tỷ lệ giải ngân thấp, việc áp dụng các kỹ thuật lâm sinh tiên tiến còn hạn chế. Đáng chú ý, phần lớn các hộ dân nhận khoán bảo vệ rừng sống tại vùng khó khăn, mức chi trả tính theo diện tích rừng còn thấp nên hiệu quả tác động trực tiếp tới đời sống chưa rõ nét.
Trước những hạn chế nêu trên, hội nghị đã thống nhất một số phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới như: đẩy mạnh tập huấn kỹ thuật cho cộng đồng, cải thiện quy trình lập và phê duyệt kế hoạch tài chính cho các chủ rừng; tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cấp chính quyền và đơn vị kỹ thuật; đồng thời đề xuất điều chỉnh mức chi trả phù hợp để đảm bảo tính hấp dẫn và bền vững của chương trình.
Thông qua chương trình ERPA, Thanh Hóa đang từng bước hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế xanh gắn với bảo tồn thiên nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu và nâng cao chất lượng sống cho người dân miền núi. Đây không chỉ là hướng đi phù hợp với xu thế quốc tế, mà còn góp phần khẳng định vai trò tiên phong của tỉnh trong các sáng kiến bảo vệ môi trường và phát triển bền vững khu vực Bắc Trung Bộ.
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, 80 năm qua, ngành nông nghiệp và môi trường đã đồng hành cùng dân tộc, trở thành trụ cột của nền kinh tế, nền tảng của sinh kế và nay đã trở thành nhân tố quan trọng trong công cuộc phát triển, chuyển mình của quốc gia trong kỷ nguyên phát triển mới...
Dự án Phát triển đô thị xanh thích ứng với biến đổi khí hậu thành phố Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang (cũ) đang được xúc tiến đẩy nhanh tiến độ nhằm hướng tới phát triển không gian đô thị thích ứng biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long...
Với mục tiêu trở thành trung tâm năng lượng sạch của miền Trung, Quảng Trị đang đẩy mạnh thu hút đầu tư, tháo gỡ thủ tục và ưu tiên phát triển các dự án điện gió, điện mặt trời, LNG quy mô lớn. Đến năm 2030, địa phương đặt mục tiêu tổng công suất phát điện đạt khoảng 8.000 MW, đóng góp đáng kể cho tăng trưởng xanh và phát triển bền vững...
Trong bối cảnh thế giới đẩy mạnh chuyển dịch năng lượng và cắt giảm phát thải carbon, Canada đang nổi lên như một hình mẫu về phát triển lò phản ứng hạt nhân mô-đun nhỏ (SMR)- công nghệ được kỳ vọng sẽ định hình “thế hệ điện hạt nhân xanh” của tương lai...
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất xe ô tô sản xuất giai đoạn 2017-2021, khi tham gia giao thông sẽ áp dụng Mức 3 (tương đương tiêu chuẩn Euro 3) từ ngày 1/1/2026; riêng Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh áp dụng Mức 4 (tương đương tiêu chuẩn Euro 4) từ ngày 1/1/2027. Từ ngày 1/1/2029, tất cả các xe ô tô tham gia giao thông ở Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh phải đáp ứng từ Mức 2 trở lên...
Tiêu & Dùng
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: