
Giá vàng trong nước và thế giới
VnEconomy cập nhật giá vàng trong nước & thế giới hôm nay: SJC, 9999, giá vàng USD/oz, biến động giá vàng tăng, giảm - phân tích, dự báo & dữ liệu lịch sử.
Thứ Ba, 02/12/2025
Khánh Vy
05/10/2021, 06:00
Việc đo lường đóng góp của kinh tế số trong GDP là công việc khó khăn, phức tạp và nhiều thách thức khi kinh tế số có nhiều khái niệm, quan điểm và cách tiếp cận khác nhau dẫn tới sự khác biệt lớn trong kết quả tính toán quy mô kinh tế số...
Theo báo cáo kinh tế số của khu vực ASEAN của liên danh tư vấn Temasek, Google, Bain (Google, Temasek và Bain Company, 2020), nền kinh tế số của 6 quốc gia (Indonesia, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Singapore và Việt Nam) đóng góp 3,7% vào GDP; trong đó, tại Việt Nam, kinh tế số đóng góp vào 16% GDP (dự báo đến 2025, kinh tế số đóng góp 29%).
Tuy nhiên, việc đo lường quy mô GDP của kinh tế số rất phức tạp bởi khó khăn trong việc xác định ranh giới, thiếu dữ liệu đáng tin cậy và đan xen trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế để thống kê chính xác.
Thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ giao, ngay từ đầu năm 2021, Tổng cục Thống kê đã thành lập Tổ xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê về kinh tế số với nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất hệ thống chỉ tiêu thống kê về kinh tế số gồm danh mục chỉ tiêu và nội dung chỉ tiêu. Trong đó, nội dung mỗi chỉ tiêu được chuẩn hóa theo các nội dung như khái niệm, phương pháp tính, phân tổ chủ yếu, kỳ công bố và cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp.
Đến nay, Tổng cục Thống kê đã đề xuất Dự thảo hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế số với 54 chỉ tiêu cụ thể được xây dựng trên cơ sở bộ chỉ tiêu do Nhóm các quốc gia phát triển (G20) đề xuất, bao gồm 5 nhóm: (1) Nhóm chỉ tiêu phản ánh kỹ năng số và nguồn nhân lực kỹ thuật số; (2) Nhóm chỉ tiêu phản ánh hạ tầng số; (3) Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ phổ cập phương tiện số; (4) Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ phổ cập dịch vụ trực tuyến; và (5) Nhóm chỉ tiêu phản ảnh quy mô kinh tế số.
Dự thảo đang được gửi lấy ý kiến và Tổng cục Thống kê sẽ tiếp tục làm việc với các bộ, ngành, các tổ chức nghiên cứu để hoàn thiện dự thảo, trình Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành vào tháng 12/2021.
Kinh tế số gồm các hoạt động kinh tế có sử dụng thông tin số, tri thức số làm yếu tố sản xuất chính; sử dụng mạng internet, mạng thông tin làm không gian hoạt động; và sử dụng công nghệ điện tử, viễn thông và thông tin để tăng năng suất lao động và tối ưu hiệu quả sản xuất của nền kinh tế.
Trong Dự thảo hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế số đã đề xuất chỉ tiêu “tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP”. Tuy nhiên, dưới góc độ kỹ thuật, việc xác định phạm vi và đo lường quy mô hay sự đóng góp của kinh tế số trong GDP là công việc khó khăn, phức tạp và còn nhiều thách thức.
Thứ nhất, thách thức trong việc thống nhất định nghĩa, khái niệm và nội hàm của kinh tế số. Hiện nay, kinh tế số có nhiều khái niệm, quan điểm và cách tiếp cận khác nhau dẫn tới sự khác biệt lớn trong kết quả tính toán quy mô kinh tế số và đóng góp của kinh tế số trong GDP. Điều này cản trở việc so sánh giữa các quốc gia về hiện trạng phát triển kinh tế số.
Thứ hai, thách thức liên quan đến xác định các nguồn số liệu biên soạn quy mô kinh tế số. Để biên soạn đầy đủ quy mô của các hoạt động kinh tế số, các nguồn dữ liệu từ điều tra, báo cáo, hồ sơ hành chính theo phương pháp truyền thống không thể bao quát toàn bộ các hoạt động kinh tế số. Trong tương lai, chúng ta cũng cần nghiên cứu, sử dụng thêm các nguồn dữ liệu phi truyền thống như: dữ liệu lớn (big data), dữ liệu trực tuyến…
Thứ ba, thách thức trong xác định các hoạt động kinh tế số trong từng ngành kinh tế. Xu hướng phát triển và ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế và đời sống xã hội ngày càng tăng dẫn tới khó khăn trong việc xác định và bóc tách hoạt động kinh tế số theo ngành kinh tế.
Thứ tư, thách thức đối với cập nhật và phản ánh các sản phẩm số trong chi phí đầu vào chi phí đầu tư cho hoạt động sản xuất. Công nghệ số, kỹ thuật số đã cho phép sản xuất và phân phối hàng hóa nhanh nhất, nhiều nhất người sản xuất và người sử dụng.
Do đó nó đang trở thành một yếu tố quan trọng của sản xuất, tương tự như vốn vật chất và vốn vô hình. Việc hạch toán và phân chia giá trị của sản phẩm số vào chi phí trung gian hay tích lũy tài sản cần thống nhất với chuẩn mực của hạch toán kế toán, phù hợp với quy định của Hệ thống tài khoản quốc gia.
Việc xác định phạm vi, đo lường đầy đủ quy mô và đóng góp của kinh tế số trong GDP là công việc khó khăn, phức tạp cần được tiến hành thận trọng, khoa học, gắn lý luận với thực tiễn và sử dụng nhiều nguồn lực.
Trong thời gian tới, để kết quả đo lường kinh tế số được đảm bảo, Tổng cục Thống kê kiến nghị một số nội dung sau:
Một là, cần thống nhất việc tiếp cận để xem xét, đo lường quy mô của kinh tế số theo phạm vi rộng nhất. Trong quá trình biên soạn phân tổ các hoạt động kinh tế số theo ba phạm vi (lõi, hẹp và rộng).
Theo đó, kinh tế số là các hoạt động kinh tế sử dụng kiến thức, thông tin được số hóa để hướng dẫn, nâng cao phân bổ nguồn lực, năng suất, mang lại tăng trưởng kinh tế chất lượng cao. Kinh tế số gồm các mô hình kinh doanh và quản lý tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho chính phủ, doanh nghiệp và người dân.
Tổng cục Thống kê sẽ tập trung biên soạn và công bố chính thức quy mô kinh tế số theo phạm vi lõi thể hiện ở hai chỉ tiêu cơ bản là giá trị tăng thêm của các ngành sản xuất hàng hóa, dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) và tổng số việc làm trong các ngành này.
Đồng thời, Tổng cục cũng sẽ tiếp tục nghiên cứu và xác định nguồn thông tin để đo lường kinh tế số theo phạm vi hẹp và phạm vi rộng. Quy mô của kinh tế số khi đó được đo lường thông qua chỉ tiêu giá trị tăng thêm của toàn bộ các hoạt động liên quan tới kinh tế số, ngoài phạm vi lõi còn bao gồm các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, các giao dịch kinh doanh khác được hỗ trợ bởi CNTT-TT; hoạt động dựa vào đầu vào kỹ thuật số và các hoạt động kinh tế chủ yếu dựa vào nền tảng số (google, face book, amazon, zalo, lazada, grap, bee, giao hàng tiết kiệm…), các sàn giao dịch thương mại điện tử xuyên biên giới, bán lẻ trực tuyến, đồng tiền số chung, nền tảng công nghiệp số, học trực tuyến, khám bệnh trực tuyến, làm việc từ xa, vận chuyển, giao nhận, quảng cáo trực tuyến...
Hai là, lựa chọn các chỉ tiêu cốt lõi, phản ánh toàn diện nhất về kinh tế số ở tầm vĩ mô (tầm quốc gia) và có tính khả thi để quy định trong Phụ lục – Danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia ban hành theo Luật Thống kê đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung.
Ba là, hoàn thiện và ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê về kinh tế số. Hệ thống này được xây dựng dựa trên một số nguyên tắc cơ bản như: bảo đảm phản ánh toàn diện sự đóng góp của kinh tế số cho sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như tác động của nó đối với đời sống kinh tế-xã hội; bảo đảm tính khả thi (có thể thu thập được); và bảo đảm so sánh quốc tế (theo chuẩn mực quốc tế).
Bốn là, lồng ghép các nội dung liên quan tới kinh tế số vào các cuộc điều tra hiện hành. Theo đó, nội dung được lồng ghép phải đảm bảo để thu thập đủ thông tin để tính toán tỷ trọng của kinh tế số trong từng ngành kinh tế, cũng như tỷ trọng của toàn bộ kinh tế số trong GDP của cả nước. Do vậy, để tính toán được đầy đủ, chính xác, cần có sự tham gia của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp và người dân trong việc cung cấp thông tin đầu vào để biên soạn các chỉ tiêu phản ánh kinh tế số ở cả phía cung và phía cầu.
Năm là, tăng cường năng lực thống kê trong đo lường kinh tế số theo tiêu chuẩn quốc tế (hệ thống tài khoản quốc gia, cán cân thanh toán quốc tế (BOP), tiêu chuẩn phân ngành, mã VSIC…); bổ sung các khái niệm mới, sản phẩm, dịch vụ mới trên nền tảng số vào rổ hàng hóa và trọng số tính CPI, PPI, GDP)…; nâng cao hiệu quả phối kết hợp, cung cấp thông tin, số liệu về kinh tế số và mức độ chuyển đổi số; áp dụng phương pháp và công cụ thống kê hiện đại để đo lường kinh tế số.
Sáu là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thống kê. Xây dựng ứng dụng nền tảng thu thập và xử lý, ứng dụng chính thức dữ liệu lớn tích hợp với kho dữ liệu vi mô tập trung thống nhất và bổ sung các ứng dụng thống kê sử dụng công nghệ dữ liệu lớn vào kho ứng dụng hỗ trợ hoạt động thống kê.
Quy hoạch, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông của Tổng cục Thống kê đáp ứng yêu cầu thu thập, xử lý, tổng hợp, phân tích, phổ biến và lưu trữ dữ liệu các cuộc điều tra, Tổng điều tra thống kê trong Chương trình điều tra thống kê quốc gia.<
Ninh Bình đang thể hiện sự quyết liệt trong việc xử lý các dự án chậm tiến độ và điều chuyển vốn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh yêu cầu tăng tốc giải ngân và bảo đảm mục tiêu tăng trưởng năm 2025, tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp mạnh mẽ nhằm xử lý các dự án chậm tiến độ, đồng thời điều chuyển vốn sang những công trình có khả năng hoàn thành nhanh. Việc siết chặt kỷ luật đầu tư công được kỳ vọng sẽ tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong việc sử dụng nguồn lực và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương.
Trong 11 tháng đầu năm 2025, tổng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) của Đồng Nai đạt xấp xỉ 2,5 tỷ USD, vượt kế hoạch năm 2025 với 250 dự án đầu tư mới và tăng vốn. Cùng với đó, địa phương cũng chạy nước rút thu ngân sách đạt 100 ngàn tỷ đồng.
Quá trình tăng trưởng kinh tế nổi bật của Việt Nam vừa qua dựa chủ yếu vào đóng góp của vốn (chiếm tới 70%) và lao động trong khi năng suất giữ vai trò thứ yếu. Tuy nhiên, sự già hóa dân số ở Việt Nam dự báo sẽ diễn ra nhanh từ những năm 2040 sẽ kéo theo mức đóng góp của lao động vào tăng trưởng kinh tế chuyển từ dương sang âm...
Trước yêu cầu phát triển đô thị trong giai đoạn mới, thành phố Huế đang tăng tốc nhiều công trình hạ tầng lớn. Từ chỉnh trang bờ Bắc cầu vượt sông Hương đến tuyến đường ven biển Thuận An, tất cả đều được lãnh đạo thành phố yêu cầu bám sát tiến độ, bảo đảm chất lượng và hoàn thành đúng kế hoạch...
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu các bộ, ngành lựa chọn kỹ lưỡng các dự án thực sự trọng điểm trong tổng số 232 công trình đủ điều kiện khởi công, khánh thành, bảo đảm chương trình sự kiện chào mừng Đại hội XIV diễn ra trang trọng, mạch lạc và có sức lan tỏa...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: