Như VnEconomy đưa tin, Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc
phòng vừa ra kết luận, đề nghị Viện kiểm sát Quân sự Trung ương truy tố 9 bị
can trong vụ án “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai ” và “Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản” xảy ra tại tỉnh Khánh Hòa và Tập đoàn Phúc Sơn.
Trong đó, các bị can Nguyễn Văn Hậu, cựu Chủ tịch kiêm Tổng
giám đốc Tập đoàn Phúc Sơn; Trần Hữu Định, Giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư
Nam Á; Nguyễn Thị Hằng, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Phúc Sơn bị đề nghị truy tố
về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Kết luận điều tra nêu rõ, sai phạm đất đai xảy ra khi Công
ty Phúc Sơn và UBND tỉnh Khánh Hòa đã đề nghị Bộ Quốc phòng bàn giao trước và
tiếp nhận gần 63 ha đất (sân bay cũ) khi chưa có Quyết định thu hồi đất, Quyết
định giao đất.
Ngoài ra, cơ quan điều tra cũng xác định, Dự án Khu trung
tâm thương mại - Dịch vụ - Tài chính - Du lịch Nha Trang chưa được phép huy động
vốn, các sản phẩm tại dự án chưa được phép chuyển nhượng song Nguyễn Văn Hậu
(Chủ tịch Tập đoàn Phúc Sơn) ký các hợp đồng chuyển nhượng đất, chiếm đoạt số
tiền hơn 7.032 tỷ đồng.
Cụ thể, doanh nghiệp này đã ký 983 hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với 683 cá nhân và thu về hơn 7.032 tỷ đồng. Trong số đó, có
hơn 5.950 tỷ đồng được ghi nhận trong sổ sách công ty. Còn lại các bị can để
ngoài sổ sách hơn 1.076 tỷ đồng.
Kết luận cho thấy để hợp thức hồ sơ số tiền để ngoài sổ sách,
Nguyễn Văn Hậu chỉ đạo Ban kinh doanh công ty lập hồ sơ thể hiện Trần Hữu Định
ký hợp đồng hợp tác đầu tư, biên bản đăng ký nguyện vọng, văn bản thỏa thuận với
Công ty Phúc Sơn; các phiếu thu 10% giá trị hợp đồng trong hồ sơ thể hiện Định
và Nguyễn Thị Hằng nộp tiền.
Khi có khách hàng, Định ký hồ sơ chuyển nhượng hợp đồng cho
khách hàng gồm Đơn xin chuyển nhượng hợp đồng, biên bản thanh lý hợp đồng.
Trên cơ sở hồ sơ này và đơn đăng ký nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất của khách hàng, Công ty Phúc Sơn làm thủ tục sang tên trên hợp đồng.
Theo chỉ đạo của Hậu, Hằng nhận tiền từ Định và nộp vào công ty 10% giá trị hợp
đồng của từng lô đất để hạch toán kế toán. Số tiền còn lại Hằng giao lại và thực
hiện các khoản chi theo chỉ đạo của Hậu.
Liên quan vụ án, tại cơ quan điều tra, bị can Trần Hữu Định –
giám đốc Công ty cổ phần Nam Á (bạn của Hậu) cho biết do nhận thức pháp luật hạn
chế, tin tưởng vào tình trạng pháp lý dự án nên giúp Hậu hợp thức hồ sơ gian dối.
Từ đó, Định giúp Nguyễn Văn Hậu bán ra thị trường 211 lô đất, chiếm đoạt hơn
1.247 tỷ đồng và để ngoài sổ sách hơn 1.076 tỷ đồng.
Còn Nguyễn Thị Hằng, nguyên Phó Tổng giám đốc Công ty Phúc Sơn,
chị gái Hậu khai nhận, năm 2017, Hằng là thủ quỹ công ty. Bản thân Hằng học hết
lớp 7/12, nhận thức pháp luật còn hạn chế, không am hiểu quy định pháp luật về đầu
tư, kinh doanh bất động sản và kế toán. Ngoài ra, do tin tưởng em trai nên Hằng cùng với Định hợp thức các chứng từ kế toán.
Đặc biệt, kết quả điều tra cũng cho thấy, sau khi ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với Công ty Phúc Sơn, nhiều khách hàng đã bán lại
hợp đồng để hưởng tiền chênh. Tổng số có 1.882 giao dịch liên quan đến việc
chuyển nhượng hợp đồng.
Làm việc với cơ quan điều tra, phần lớn khách hàng đề nghị được
nhận đất theo thỏa thuận tại hợp đồng đã ký với Công ty Phúc sơn.
Quá trình làm việc với cơ quan điều tra, các khách hàng, bị
can Nguyễn Văn Hậu và Công ty Phúc Sơn có nguyện vọng được tự thỏa thuận và mong
muốn dự án được tiếp tục thực hiện để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng.
Do vậy, để đảm bảo lợi ích của nhà nước, lợi ích hợp pháp của
người dân đã tham gia đầu tư vào Dự án và quyền lợi của chủ đầu tư, Cơ quan Điều
tra hình sự Bộ Quốc phòng kiến nghị UBND tỉnh Khánh Hòa phối hợp với các cơ
quan có liên quan rà soát, tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục pháp lý để dự án dược
tiếp tục triển khai.
Về phía các công ty bất động sản môi giới, cơ quan điều tra
có văn bản yêu cầu các công ty này phải nộp lại toàn bộ số tiền đã nhận từ Công
ty Phúc Sơn. Tuy nhiên, doanh nghiệp này còn đang nợ một công ty môi giới hơn
22,3 tỷ đồng.
Cơ quan điều tra nhận định để xảy ra các vi phạm nêu trên do
nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân xuất phát từ những hạn chế, bất cập của
hệ thống pháp luật trong công tác quản lý đất đai và quản lý hoạt động kinh
doanh bất động sản.
Đơn cử như tình trạng giao dịch chuyển nhượng đặt cọc, giữ chỗ tràn lan
nhưng không được kiểm soát, không được đăng ký.
Chế tài xử lý đối với hành vi
vi phạm còn chưa đủ sức răn đe. Chưa có quy định, chế tài cụ thể để quản lý hoạt
động môi giới bất động sản, đặc biệt là tình trạng các cá nhân hành nghề môi giới
tự do còn hoạt động tràn lan, thiếu kiểm soát.