Kiến nghị kinh tế hóa môi trường, nâng cao hiệu quả công cụ thuế, phí môi trường, hạn ngạch phát thải

Tùng Dương

02/10/2025, 12:26

Kinh tế hóa môi trường, trong đó thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái và nâng cao hiệu quả của công cụ thuế môi trường, phí môi trường, hạn ngạch phát thải. Áp dụng triệt để nguyên tắc “Người được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho bảo vệ môi trường; người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý”...

VnEconomy

Kiến nghị được nêu trong báo cáo của Đoàn giám sát về kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực”.

Trước đó, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2025, trong đó quyết định giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”. Thời gian qua, Đoàn giám sát đã tổ chức 3 Đoàn công tác giám sát tại 9 tỉnh, thành phố (sau sáp nhập); làm việc với 8 Bộ, Thanh tra Chính phủ và 4 tập đoàn, tổng công ty…

ĐƯA CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM LÊN HÀNG ĐẦU Ở KHU VỰC

Đoàn giám sát thấy rằng việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, tích cực. Theo đó, việc ban hành chính sách, pháp luật đã thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương của Đảng về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đề cao nguyên tắc môi trường là một trong ba trụ cột của phát triển bền vững, chuyển từ quản lý hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế, cơ chế thị trường và sự tham gia của toàn xã hội; ban hành khối lượng lớn các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường tiếp tục được rà soát, cập nhật, tiệm cận với trình độ quốc tế…

Công tác bảo vệ môi trường đã có nhiều chuyển biến, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra. Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng, đứng tốp đầu trong ASEAN. Các mục tiêu, chỉ tiêu về môi trường đã cơ bản đạt được theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, 03/05 chỉ tiêu đã vượt kế hoạch đặt ra cho năm 2025.

Các chỉ số về bảo vệ môi trường đã đóng góp quan trọng đưa chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam lên vị thế hàng đầu ở khu vực với vị trí 54/166 quốc gia và vùng lãnh thổ (năm 2024), tăng 34 bậc so với năm 2016, xếp thứ hai trong ASEAN, chỉ sau Thái Lan.
Các chỉ số về bảo vệ môi trường đã đóng góp quan trọng đưa chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam lên vị thế hàng đầu ở khu vực với vị trí 54/166 quốc gia và vùng lãnh thổ (năm 2024), tăng 34 bậc so với năm 2016, xếp thứ hai trong ASEAN, chỉ sau Thái Lan.

Cụ thể: Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn: đến hết năm 2024 đạt 97,26%, vượt chỉ tiêu đến năm 2025 đạt 90%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường: đến tháng 4/2025 đạt 94,9%, vượt chỉ tiêu đến năm 2025 đạt 92%; đến hết năm 2024, tỷ lệ che phủ rừng đạt 42,02%, vượt chỉ tiêu năm 2025 duy trì ổn định ở 42%.

Các chỉ số về bảo vệ môi trường đã đóng góp quan trọng đưa chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam lên vị thế hàng đầu ở khu vực với vị trí 54/166 quốc gia và vùng lãnh thổ (năm 2024), tăng 34 bậc so với năm 2016, xếp thứ hai trong ASEAN, chỉ sau Thái Lan.

Bên cạnh đó, nguồn lực xã hội hóa và đầu tư từ doanh nghiệp cho bảo vệ môi trường cũng có những chuyển biến tích cực. Đáng chú ý có sự tham gia tích cực từ khu vực tư nhân, đặc biệt trong lĩnh vực xử lý chất thải (122 cơ sở xử lý chất thải nguy hại, 8/14 dự án đốt rác phát điện đang hoạt động từ vốn tư nhân).

Các nguồn thải lớn đã được kiểm soát chủ động và chặt chẽ, không để xảy ra sự cố môi trường lớn; tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải tăng dần qua các năm; công tác quản lý chất thải có nhiều chuyển biến, việc tái chế, tái sử dụng chất thải được tăng cường, giảm hình thức chôn lấp. Tỷ lệ khu công nghiệp, cụm công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung tăng so với giai đoạn trước.

Chất lượng môi trường nhìn chung được cải thiện, đặc biệt là chất lượng môi trường đất, môi trường nước mặt một số lưu vực sông chính, nước biển ven bờ, nước dưới đất.

Công tác ứng phó với biến đổi khí hậu có chuyển biến tích cực; khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội được nâng cao, bảo đảm sinh kế bền vững. Chuyển đổi xanh trong các ngành, lĩnh vực hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 được thúc đẩy mạnh mẽ. Hành lang pháp lý về phát triển thị trường carbon tại Việt Nam đã và đang được hình thành.

Việt Nam đang nỗ lực triển khai các cam kết tại COP26 (NetZero vào năm 2050). Các bộ, ngành đã ban hành kế hoạch giảm phát thải, các doanh nghiệp bắt đầu thực hiện kiểm kê khí nhà kính…

COI CHI CHO MÔI TRƯỜNG LÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN, LOẠI BỎ QUAN ĐIỂM “BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CẢN TRỞ TĂNG TRƯỞNG”

Bên cạnh những kết quả tích cực, Đoàn giám sát cũng nhận thấy một số quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Việc tổ chức thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 còn một số hạn chế, bất cập.

Việc thực hiện một số biện pháp khẩn cấp xử lý, khắc phục ô nhiễm môi trường chưa kịp thời dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số nơi còn diễn biến phức tạp, có thời điểm ở mức độ nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí (do bụi mịn) đang là vấn đề nhức nhối tại một số đô thị lớn.

Việc đầu tư đồng bộ hạ tầng thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt đô thị, cụm công nghiệp, làng nghề còn chưa được quan tâm đúng mức (khoảng 18% tổng lượng nước thải đô thị được thu gom, xử lý). Hạ tầng kỹ thuật xử lý chất thải rắn sinh hoạt còn lạc hậu, hình thức chôn lấp trực tiếp vẫn chiếm tỷ lệ cao (62%)…

Thống nhất trong nhận thức và hành động coi chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển, bảo đảm an ninh môi trường; loại bỏ quan điểm “bảo vệ môi trường sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế”.
Thống nhất trong nhận thức và hành động coi chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển, bảo đảm an ninh môi trường; loại bỏ quan điểm “bảo vệ môi trường sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế”.

Để khắc phục những hạn chế này, báo cáo của đoàn giám sát kiến nghị nhiều nhiệm vụ giải pháp đột phá trong đó có việc thống nhất trong nhận thức và hành động coi chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển, bảo đảm an ninh môi trường; loại bỏ quan điểm “bảo vệ môi trường sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế”.

Tiếp tục hoàn thiện nhóm chỉ tiêu về môi trường, GDP xanh trong kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm và hằng năm phù hợp với yêu cầu phát triển từng giai đoạn. Nghiên cứu xây dựng Nghị quyết về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV.

Cùng với đó, thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, thực hiện chuyển đổi xanh thông qua các cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu, phát triển công nghệ thân thiện với môi trường, công nghiệp môi trường, năng lượng tái tạo.

Hoàn thiện và triển khai hiệu quả các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường; huy động nguồn lực tư nhân thông qua các công cụ tài chính xanh như trái phiếu xanh, tín dụng xanh... để triển khai các dự án đầu tư xanh, dự án bảo vệ môi trường. Chú trọng đổi mới hình thức, phương thức ưu đãi, hỗ trợ cho các dự án xanh và áp dụng tiêu chuẩn ESG phù hợp nhu cầu thực tế từng địa phương.

Một giải pháp quan trọng cũng được đưa ra là tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho bảo vệ môi trường. Nghiên cứu, xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; hỗ trợ chuyển đổi xanh, giảm phát thải khí nhà kính; phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, công nghệ mới không phát thải, công nghệ lưu trữ năng lượng, thu giữ và sử dụng carbon thông qua các cơ chế tài chính linh hoạt (như đầu tư công hoặc hợp tác công tư...).

Bố trí đúng, đủ, quản lý có hiệu quả và tăng dần chi ngân sách cho bảo vệ môi trường tương ứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Báo cáo cũng nhấn mạnh việc hoàn thiện và triển khai hiệu quả các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường; huy động nguồn lực tư nhân thông qua các công cụ tài chính xanh như trái phiếu xanh, tín dụng xanh... để triển khai các dự án đầu tư xanh, dự án bảo vệ môi trường. Trong đó chú trọng đổi mới hình thức, phương thức ưu đãi, hỗ trợ cho các dự án xanh và áp dụng tiêu chuẩn ESG phù hợp nhu cầu thực tế từng địa phương.

Đa dạng hóa nguồn cung tín chỉ carbon trong và ngoài nước, trong đó ưu tiên cho phát triển thị trường trong nước. Khuyến khích phát triển các dự án tạo tín chỉ carbon trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, lâm nghiệp, nông nghiệp carbon thấp, xử lý chất thải, công nghiệp xanh, các công nghệ thu hồi, lưu giữ carbon…

Cùng với việc sửa đổi một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 10 góp phần khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, báo cáo của Đoàn giám sát cũng kiến nghị các giải pháp cấp bách đến cuối năm 2026. Trong đó có rà soát, đánh giá, cập nhật, điều chỉnh trong trường hợp cần thiết các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến bảo vệ môi trường nhằm “mở rộng và kiến tạo không gian phát triển mới”, tăng trưởng kinh tế 2 con số trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc xuyên suốt không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế đơn thuần.

Ban hành và triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2025- 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đồng thời thực hiện ngay các biện pháp cấp bách kiểm soát, ngăn chặn và khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh.

Tổ chức thiết lập và vận hành thí điểm Sàn giao dịch tín chỉ carbon, bước đầu hình thành và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam; đánh giá và quy định tỷ lệ kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, lượng tín chỉ carbon tối thiểu phải được giữ lại cho thị trường carbon trong nước trước khi xem xét trao đổi ra quốc tế phù hợp với từng giai đoạn và tình hình thực tế trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia.

Đọc thêm

Dòng sự kiện

Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025

Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025

Sáng kiến Diễn đàn thường niên Kinh tế mới Việt Nam (VNEF) đã được khởi xướng và tổ chức thành công từ năm 2023. VNEF 2025 (lần thứ 3) có chủ đề: "Sức bật kinh tế Việt Nam: từ nội lực tới chuỗi giá trị toàn cầu".

Bài viết mới nhất

Thương hiệu Mạnh Việt Nam 2025

Thương hiệu Mạnh Việt Nam 2025

Khởi xướng từ năm 2003, chương trình THƯƠNG HIỆU MẠNH VIỆT NAM đã trở thành sự kiện thường niên lớn nhất do Tạp chí Kinh tế Việt Nam – VnEconomy – Vietnam Economic Times tổ chức, dành cho cộng đồng các Doanh nghiệp Việt Nam.

Bài viết mới nhất

Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 39-2025

Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 39-2025

Bối cảnh và thực tiễn cho thấy thời gian tới, Việt Nam khó có thể tăng trưởng bằng con đường gia tăng quy mô hàng hóa xuất khẩu như trong nhiều năm qua, mà phải chuyển hướng sang tăng phần giá trị gia tăng tạo ra trong nước của hàng hóa.

Bài viết mới nhất

[Video]: Lũ quét tràn về xã miền núi Thanh Hoá

[Video]: Lũ quét tràn về xã miền núi Thanh Hoá

15 quốc gia có đầu tư tư nhân vào AI lớn nhất thế giới

15 quốc gia có đầu tư tư nhân vào AI lớn nhất thế giới

Đà Nẵng đăng cai giải IRONMAN cự ly toàn phần vào năm 2026

Đà Nẵng đăng cai giải IRONMAN cự ly toàn phần vào năm 2026

Asko AI Platform

Askonomy AI

...

icon

Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?

Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính:

VnEconomy