Phát triển công nghệ sinh học nông nghiệp tại Việt Nam vẫn tụt hậu so với thế giới
Ngày nay, công nghệ sinh học trong nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ theo nhiều hướng công nghệ vi sinh, công nghệ nano, công nghệ tế bào, công nghệ chuyển gen, chỉnh sửa gen… giúp ngành nông nghiệp đạt được những đỉnh cao mới. Tuy nhiên, áp dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam vẫn còn chậm, có xu hướng tụt hậu so với thế giới…
Ngày 5/10/2024, tại Hà Nội, Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) tổ chức diễn đàn “Thành tựu và định hướng ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế”.
CÔNG NGHỆ SINH HỌC TẠO ĐỘT PHÁ CHO NÔNG NGHIỆP
Phát biểu tại diễn đàn, TS. Cao Đức Phát, Chủ tịch HĐQT Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI), nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho biết trong 30 năm qua, những kết quả của công nghệ sinh học đã giúp ngành nông nghiệp có nhiều thành tựu đột phá. Trong đó, những công nghệ nổi bật có nuôi cấy mô giúp lĩnh vực trồng trọt, đặc biệt là các sản phẩm như ngô, đỗ tương, bông… có năng suất vượt trội, góp phần đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu, giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật, cải thiện chất lượng đất, môi trường.
“Theo thống kê, thế giới có khoảng 200 triệu ha cây trồng chuyển gen. Tỷ lệ chiếm nhiều nhất là đậu tương, lên tới gần 80% diện tích. Ngoài ra, diện tích trồng ngô cũng tới hơn 25%. Công nghệ sinh học giúp đẩy mạnh sử dụng các chế phẩm sinh học, đảm bảo mùa vụ, nâng cao thu nhập cho người dân”, TS. Cao Đức Phát chia sẻ.
Hiện nay, công nghệ sinh học đã phát triển sang công nghệ vi sinh, công nghệ nano, công nghệ tế bào, công nghệ chỉnh sửa gen… giúp ngành nông nghiệp đạt được những đỉnh cao mới. Giới hạn áp dụng công nghệ sinh học cũng không còn bó buộc trong trồng trọt, mà mở ra sang chăn nuôi, thủy sản.
Tuy nhiên, theo TS. Cao Đức Phát, điều đáng tiếc là áp dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam còn chậm, khoảng cách với thế giới có xu hướng ngày càng tăng và chưa đạt mục tiêu của Đảng, Nhà nước đặt ra. Trong đó, cản trở chính là nhận thức.
Chia sẻ về một số khó khăn trong nghiên cứu công nghệ sinh học của ngành chăn nuôi, TS. Nguyễn Khánh Vân, Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm công nghệ tế bào động vật (Viện Chăn nuôi), cho biết: "Chúng tôi đã nghiên cứu tạo ra phôi lợn có khả năng kháng bệnh tai xanh, nhưng hiện nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở giai đoạn tạo phôi, do thiếu cơ sở vật chất và trang trại đạt tiêu chuẩn để phục vụ cho các giai đoạn nghiên cứu tiếp theo. Điều này hạn chế khả năng chúng tôi tiến xa hơn trong ứng dụng thực tế".
Về lĩnh vực thủy sản, PGS.TS Đặng Thị Lụa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản, cho hay công nghệ sinh học đã được ứng dụng rộng rãi như công nghệ di truyền phân tử, chọn giống các đối tượng nuôi trồng thủy sản, nghiên cứu bệnh, phát triển kit chẩn đoán, nghiên cứu mô, phát triển công nghệ lưu trữ, bảo quản đông lạnh các nguồn tinh trùng, công nghệ chế biến sản phẩm thủy sản…
“Nhờ các chương trình chọn giống, kết hợp phương pháp chọn giống truyền thống (di truyền số lượng) và phương pháp chọn giống hiện đại (di truyền phân tử), loài nuôi thủy sản có những tính trạng ưu việt. Có thể kể đến như: cá tra, cá chẽm, cá rô phi, tôm thẻ chân trắng tăng trưởng nhanh; cá tra kháng bệnh gan, thận mủ; cá rô phi chịu mặn, chịu lạnh; tôm thẻ chân trắng kháng bệnh”, bà Lụa thông tin.
NHÌN LẠI 10 NĂM SỬ DỤNG GIỐNG CÂY TRỒNG CHUYỂN GEN
GS.TS Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp, cho biết diện tích ngô, bông, đậu tương chuyển gen tại Việt Nam tăng rất nhanh. Từ 2015 đến nay, Việt Nam trồng hơn 1,3 triệu ha cây trồng chuyển gen.
"Lợi nhuận của người nông dân khi sử dụng giống chuyển gen là rất lớn. Người nông dân có thể tăng lợi nhuận trên 1 đơn vị diện tích ít nhất từ 1,5-2 lần so với cây trồng thông thường", GS.TS Lê Huy Hàm nhận định.
Theo bà Sonny Tababa, Giám đốc Công nghệ sinh học CropLife châu Á, trải qua quá trình 10 năm phát triển công nghệ sinh học, Việt Nam đang trong giai đoạn rực rỡ nhất.
Nhấn mạnh công nghệ chuyển gen đã khẳng định được vai trò, tầm quan trọng trong nền nông nghiệp Việt Nam, song bà Sonny Tababa cũng khuyến cáo Việt Nam nên có đánh giá tổng thể về hành lang pháp lý, cũng như các giống mới xuất hiện (cả về nông sản lẫn dịch hại) để có một cách tiếp cận mới, phù hợp với yêu cầu hiện tại.
"Với việc ứng dụng các giống chuyển gen, Việt Nam đã triển khai đồng bộ các khung pháp lý. Đây là yếu tố quan trọng khi thế giới đã tiến rất xa về công nghệ chỉnh sửa gen, chuyển gen trong chọn tạo giống cây trồng”.
GS.TS Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp.
Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Nguyễn Quý Dương cho rằng Việt Nam là quốc gia nhiệt đới nên luôn chịu áp lực rất lớn về dịch hại. Trong đó, một số bệnh như khảm lá sắn, sâu keo mùa thu, sâu róm thông, lùn sọc đen… đã gây nhiều thiệt hại cho nền nông nghiệp nước ta.
"Khảm lá sắn từng là một vấn đề nhức nhối, nhưng khi sử dụng một loại giống chuyển đổi gen, gần như thách thức được giải quyết", ông Dương đánh giá; đồng thời nhấn mạnh, nghiên cứu chỉnh sửa gen không nên chỉ dừng ở tính kháng bệnh, bởi giống đang dần trở thành một giải pháp mang tính toàn diện. Đặc biệt, sản phẩm của Việt Nam vẫn dừng ở ngưỡng chỉnh sửa gen, không phải giống biến đổi gen (GMO).
TS. Đinh Công Chính, Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cho biết tính đến hết ngày 30/9/2024, Cục đã công nhận tổng số 31 giống ngô chuyển gen. Tuy nhiên, diện tích trồng ngô ở nước ta lại giảm từ gần 1,2 triệu ha năm 2014, xuống 884.000 ha năm 2023. Năng suất ngô bình quân ở nước ta năm 2015 đạt 44,8 tạ/ha nhưng đến năm 2023 chỉ tăng lên 50,2 tạ/ha. Như vậy, trong 10 năm qua khi đưa ngô chuyển gen vào sản xuất, năng suất ngô của Việt Nam chỉ tăng được lên 540kg/ha (trung bình tăng 54kg/ha/năm). Trong khi đó, tỷ lệ nhập khẩu tăng từ 58,8% lên 68,6%.
“Nhìn lại mỗi năm, năng suất ngô trung bình chỉ cải thiện nửa tạ/ha là rất thấp! Đây là những con số cần phải thảo luận để có cách làm tối ưu hơn. Ngô chuyển đổi gen rất tốt nhưng làm thế nào để ứng dụng cải thiện năng suất lại là một câu chuyện”, ông Chính trăn trở.
PGS.TS Nguyễn Hữu Ninh, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cho rằng ứng dụng công nghệ sinh học tạo ra sự đột phá, những kỹ thuật nhân giống hiện đại, kỹ thuật di truyền và chỉnh sửa bộ gen đã cung cấp các giống mới với các tính trạng mong muốn như: tính chịu hạn, kháng bệnh, chống chịu mặn; sử dụng chất dinh dưỡng, tăng năng suất và sức sống tự nhiên, hiệu quả sử dụng nước…
Nhận định Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 30/1/2023 của Bộ Chính trị đã xác định "xây dựng công nghệ sinh học trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng", song PGS.TS Nguyễn Hữu Ninh cho biết trong giai đoạn từ nay đến 2030, số lượng nhiệm vụ khoa học công nghệ bị giảm so với cách đây 10 năm. Một phần nguyên nhân là rào cản về các cơ chế, chính sách, điển hình là Nghị định 70. Do nguồn lực bị giới hạn, khi nghiên cứu công nghệ sinh học nên ưu tiên một số lĩnh vực có khả năng cho ra sản phẩm, sản phẩm có giá trị kinh tế.
Lãnh đạo Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường dự báo trong khoảng 5 năm tới, công nghệ sẽ tập trung vào kỹ thuật di truyền, bao gồm chỉnh sửa gen, nhân giống vô tính và tái tổ hợp ADN. Vì vậy, trước mắt, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung xây dựng, khai thác tối đa hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm, tập trung vào những công nghệ tế bào, công nghệ nano...