19:35 30/09/2024

Sau soát xét, DLG báo lãi tăng hơn 15 tỷ và giải trình về cơ sở đưa ra kết luận ngoại trừ

Hà Anh

Tập đoàn DLG cho biết đã có kế hoạch về việc thanh lý, nhượng bán tài sản đảm bảo, tài sản được bảo lãnh và dòng tiền để trả nợ cho ngân hàng trong giai đoạn từ năm 2024 đến năm 2026, cũng như khả năng đàm phán của Tập đoàn về việc thanh toán các khoản vay quá hạn và đến hạn thanh toán với các chủ nợ và điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng hoạt động liên tục cùa Tập đoàn.

Sơ đồ giá cổ phiếu DLG trên HOSE.
Sơ đồ giá cổ phiếu DLG trên HOSE.

Công ty Cổ phần Tập đoàn Đức Long Gia Lai (mã DLG-HOSE) vừa công bố Báo cáo tài chính soát xét bán niên năm 2024 và giải trình về cơ sở đưa ra kết luận ngoại trừ trên BCTC riêng và hợp nhất 6 tháng năm 2024.

Trước đó, lợi nhuận sau thuế trước soát xét lãi hơn 45,37 tỷ đồng và sau soát xét, DLG ghi nhận lãi hơn 61 tỷ đồng và tăng 15 tỷ đồng so với BCTC tự lập.

Theo giải trình từ phía công ty, lợi nhuận sau thuế TNDN 6 tháng đầu năm 2024 sau soát xét tăng số tiền: 15,6 tỷ đồng, tương ứng tăng thêm 34,5% so với trước soát xét, nguyên nhân là do giá vốn hàng bán ghi nhận tăng chi phí dự phòng giảm giá hàng tồn kho 9,4 tỷ đồng sau soát xét dẫn đến lợi nhuận gộp giảm tương ứng số là 9,4 tỷ đồng.

Trong khi đó, chi phí tài chính giảm do công ty con điều chỉnh lại giá trị khoản đầu tư vào cuối kỳ dẫn đến khoản dự phòng giảm giá khoản đầu tư giảm sau soát xét; Phần lãi hoặc lỗ trong công ty liên kết tăng 11 triệu đồng do lợi nhuận sau thuế TNDN tại công ty liên kết tăng sau khi điều chỉnh giảm thuế TNDN phải nộp trong kỳ; Chi phí quản lý doanh nghiệp giảm sau soát xét nguyên nhân chủ yếu sau soát xét Công ty hoàn nhập dự phòng nợ phải thu khó đòi; Chi phí khác tăng 4,9 tỷ đồng do Công ty ghi nhận thêm tĩển chậm nộp và các chi phí không hợp lý hợp lệ tăng sau soát xét.

Mặt khác, chi phí thuế TNDN hoãn lại tăng 10,6 tỷ đồng ghi nhận từ việc loại trừ khoản dự phòng đầu tư tài chính khoản đầu tư vào các Công ty con trích lập sau soát xét tăng.

Như vậy, so với BCTC bán niên 2023 thì công ty báo lãi tăng hơn 26,6 tỷ đồng (từ 34,4 tỷ lên hơn 61 tỷ đồng). Nguyên nhân là do hoạt động kinh tế khởi sắc đã giúp cho tổng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của Tập đoàn trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt 594,7 tỷ đồng tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước - trong đó: doanh thu bán sản phẩm linh kiện điện tử của Nhà máy tại Trung Quốc & Hàn Quốc trực thuộc Công ty MassNoble tại Hong Kong tăng hơn 57,2 tỷ đồng, đồng thời doanh thu từ dịch vụ trạm thu phí BOT tăng 39,9 tỷ đồng. Giá vốn hàng bán cũng tăng khiến lợi nhuận gộp của doanh nghiệp tương ứng 41,6 tỷ đồng, dẫn đến lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ tăng 37,2 % so với cùng kỳ, lên 153,6 tỷ đồng.

Trong kỳ, các khoản giảm trừ doanh thu trong kỳ Công ty con tăng do hàng bán bị trả lại so với cùng kỳ năm 2023; Chi phí tài chính giảm 28,2 tỷ đồng do Công ty mẹ ghi nhận giảm khoản lỗ chênh lệch tỷ giá, các khoản vay giảm dẫn đến chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ giảm so với cùng kỳ năm trước;

Mặt khác, phần lãi hoặc lỗ trong công ty liên kết giảm 47,6 triệu đồng so với cùng kỳ vì doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ tại Công ty liên kết trong 6 tháng đầu năm 2024 thấp hơn với cùng kỳ; Chi phí khác tăng 4,3 tỷ đồng do ghi nhận tiền chậm nộp và chi phí khác trong kỳ tăng.

Ngoài ra, lợi nhuận kế toán trước thuế tại các công ty con tăng so với cùng kỳ nên chi phí thuế TNDN phát sinh trong kỳ cũng tăng theo; Chi phí thuế TNDN hoãn lại tăng 11,4 tỷ đồng do phát sinh từ việc loại trừ khoản trích lập dự phòng đầu tư tài chính vào các công ty con tăng hơn so với cùng kỳ năm 2023.

Giải trình về cơ sở đưa ra kết luận ngoại trừ trên báo cáo soát xét tại báo cáo tài chính riêng và họp nhất 6 tháng năm 2024.

Trên Báo cáo tài chính riêng: Phải thu về cho vay ngắn/dài hạn tại ngày 30/06/2024 trong đó bao gồm: 166.859.496.661 đồng và phải thu ngắn hạn khác tại ngày 30/06/2024 trong đó bao gồm 28.484.612.156 đồng.
Công ty chưa đánh giá được khả năng thu hồi theo thực tế của các khoản cho vay ngắn hạn và phải thu ngắn hạn khác. Với các tài liệu hiện có tại công ty, bên kiểm toán cũng không thể thu nhập đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi theo thực tế. Do đó, bên kiểm toán chưa thể xác định được ảnh hưởng của vấn đề nêu trên đến tình hình tài chính của công ty tại ngày 30/06/2024, cũng như báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (riêng) và báo cáo lưu chuyển tiền tệ (riêng) (nếu có) cho kỳ kế toán kết thúc cùng ngày.

Tại ngày 30/06/2024, khoản lỗ thuần lũy kế của Công ty là - 2.795.946.64 7.035 đồng và tại ngày đó, các khoản nợ ngắn hạn của công ty đã vượt quá tổng tài sàn ngắn hạn của công ty là 770.518.673.948 đồng. Ngoài ra công ty có một số khoản nợ phải trả và vay đã quá hạn thanh toán với tổng giá trị ước tính là 2.337.488.431.307 đồng.

Còn trên báo cáo tài chính hợp nhất: Phải thu về cho vay ngắn hạn/dài hạn tại ngày 30/06/2024 số tiền là 166.859.496.661 đồng và phải thu khác ngắn hạn tại ngày 30/06/2024 số tiền là 28.484.612.156 đồng. Tập đoàn chưa đánh giá khả năng thu hồi theo thực tế của các khoản cho vay ngắn hạn và phải thu khác ngắn hạn.

Cũng tại ngày 30/06/2024, khoản lỗ thuần lũy kế của Tập đoàn là - 2.617.143.252.835 đồng và tại ngày đó, các khoản nợ ngắn hạn của Tập đoàn đã vượt quá Tổng tài sản ngắn hạn của Tập đoàn là 826.512.407.588 đồng.

Tuy nhiên, Tập đoàn đã có kế hoạch về việc thanh lý, nhượng bán tài sản đảm bảo, tài sản được bảo lãnh và dòng tiền để trả nợ cho ngân hàng trong giai đoạn từ năm 2024 đến năm 2026, cũng như khả năng đàm phán của Tập đoàn về việc thanh toán các khoản vay quá hạn và đến hạn thanh toán với các chủ nợ và điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng hoạt động liên tục cùa Tập đoàn.

Theo giải trình từ phía công ty, tại ngày 30/06/2024, khoản lỗ thuần lần lượt của Tập đoàn là 2.617.143.252.835 đồng; Công ty mẹ là 2.795.946.647.035 đồng. Đồng thời, các khoản nợ ngắn hạn của Tập đoàn đã vượt quá tổng tài sản ngắn hạn của Tập đoàn là 826.512.407.588 đồng; Công ty mẹ là 770.518.673.948 đồng. Các điều kiện này cho thấy sự tồn tại của yếu tố không chắc chắn trọng yếu có thể dẫn đến nghi ngờ đáng kể về khả năng hoạt động liên tục của Tập đoàn.

Tuy nhiên, theo định hướng của Hội đồng Quản trị Công ty đã đưa ra kế hoạch và mục tiêu trong năm 2024-2026 đã được thông qua tại Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2024 ngày 21/06/2024, tính đến 6 tháng đầu năm 2024 DLG ghi nhận doanh thu đạt 594,7 tỷ đồng, đạt 42,4% so với kế hoạch 1.400 tỷ đồng; Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp đạt 61,1 tỷ đồng đạt 50,8% so với kế hoạch 120 tỷ đồng.

Công ty sẽ tiến hành đánh giá khả năng trả nợ theo thực tế của các khoản cho vay ngắn/dài hạn số tiền là 166.859.496.661 dồng và phải thu khác ngắn hạn số tiền là 28.484.612.156 đồng, đồng thời làm việc với các đối tác khách hàng để bổ sung tài sản đảm bảo và tăng cường thu hồi các khoản công nợ trên trong năm 2024 để cung cấp hồ sơ cho đơn vị kiểm toán nhằm tháo gỡ ý kiến ngoại trừ trong Báo cáo tài chính soát xét 6 tháng đầu năm 2024 trong thời gian sớm nhất.

Theo DLG, công ty đang quyết tâm cấu trúc lại tình hình tài chính để giảm tối đa chi phí lãi vay, tăng cường thu hồi công nợ, cắt giảm chi phí nhằm mục tiêu giảm nợ vay ngân hàng và các tổ chức, cụ thể trong 6 tháng năm 2024 Công ty đã thực hiện trả gốc vay hơn 148,4 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, công ty khẳng định tình hình sản xuất kinh doanh vẫn đang hoạt động ổn định, khắc phục các khó khăn trước mắt và thực hiện thành công mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch doanh thu và lợi nhuận đã đề ra.

Mới đây, HOSE đưa cổ phiếu DLG bị đưa vào diện cảnh báo từ ngày 23/9 vì đã chậm nộp báo cáo tài chính soát xét bán niên 2024 quá 15 ngày.

Ngoài ra, cổ phiếu DLG đang được theo dõi ở các diện như diện kiểm soát theo Quyết định số 161/QĐ-SGDHCM ngày 04/04/2024 của Tổng Giám đốc SGDCK TP.HCM do lợi nhuận sau thuế trên báo cáo tài chính kiểm toán trong 02 năm gần nhất (2022-2023) của tổ chức niêm yết là số âm, thuộc diện chứng khoán bị kiểm soát theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 38 Quy chế niêm yết và giao dịch chứng khoán niêm yết ban hành kèm theo Quyết định số 17/QĐ-HĐTV ngày 31/3/2022 của Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam.

Diện kiểm soát theo Quyết định số 162/QĐ-SGDHCM ngày 04/04/2024 của Tổng Giám đốc SGDCK TP.HCM do tổ chức kiểm toán có ý kiến kiểm toán ngoại trừ đối với Báo cáo tài chính năm đã được kiểm toán trong 02 năm liên tiếp (2022 và 2023) của tổ chức niêm yết, thuộc diện chứng khoán bị kiểm soát theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 38 Quy chế niêm yết và giao dịch chứng khoán niêm yết ban hành kèm theo Quyết định số 17/QĐ-HĐTV ngày 31/03/2022 của Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam.