Chính sách thuế carbon: Cần xác định phương án phù hợp nhất với Việt Nam
Song Hà
13/09/2023, 15:00
Việc áp dụng thuế carbon cần có lộ trình cụ thể, nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và các đối tượng chịu thuế. Các yếu tố thiết kế thuế carbon cần rõ ràng, được tham vấn rộng rãi, đầy đủ nhằm đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả...
Ảnh minh họa.
Vào tháng 7/2021, Ủy ban Châu Âu (EC) đã trình đề xuất về quy định thiết lập Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) như một trong những sáng kiến nhằm thúc đẩy việc giảm phát thải khí nhà kính và đạt trung hòa carbon vào năm 2050.
Đến ngày 10/5/2023, quy định CBAM đã được thông qua và chính thức có hiệu lực vào ngày 17/5/2023. Theo đó, CBAM sẽ bắt đầu giai đoạn chuyển tiếp kéo dài 3 năm kể từ ngày 1/10/2023. Sau giai đoạn chuyển tiếp, cơ chế này sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2026 và vận hành toàn bộ vào năm 2034.
HAI PHƯƠNG ÁN ĐỂ ÁP DỤNG THUẾ CARBON
Theo cập nhật mới nhất, ngày 17/8/2023, EC đã thông qua quy định thực hiện CBAM, đưa ra các quy định cụ thể cho giai đoạn chuyển tiếp, bao gồm các phương pháp tính toán phát thải tích hợp trong quá trình sản xuất của các hàng hóa thuộc phạm vi CBAM. Ngoài ra, EC cũng ban hành các tài liệu hướng dẫn và công cụ IT cho các nhà nhập khẩu trong EU và các doanh nghiệp ngoài EU.
Tại hội thảo “Đề xuất thuế carbon nhằm giảm nhẹ tác động của cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU đối với Việt Nam”, các chuyên gia đã đưa ra hai phương án chính để áp dụng thuế carbon, đó là tích hợp vào thuế bảo vệ môi trường hoặc tích hợp vào phí bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, một phương án khác là áp dụng đồng thời thuế carbon cùng với việc xây dựng thị trường carbon để tăng cường hiệu quả áp dụng cũng như xác định được giá sàn cho tín chỉ carbon trên hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS).
Chia sẻ kết quả rà soát, phân tích chính sách về các loại thuế, phí hiện hành về bảo vệ môi trường ở Việt Nam, ông Nguyễn Anh Minh, Luật sư thành viên của NHQuang & Cộng sự cho biết sau khi xem xét các đặc điểm chính của thuế carbon, kết quả cho thấy, thuế bảo vệ môi trường cùng với phí bảo vệ môi trường được coi là tương thích với thuế carbon trong số các loại thuế và phí khác nhau ở Việt Nam.
Phân tích cụ thể, luật sư Minh cho rằng tích hợp vào thuế bảo vệ môi trường hiện là chính sách thuế phù hợp nhất với thuế carbon. Tuy nhiên, một số yếu tố nhất định của thuế bảo vệ môi trường hiện tại không tương thích với thiết kế của một công cụ định giá carbon phù hợp với CBAM để được miễn giảm. Ví dụ, đối tượng chịu thuế hiện là hàng hóa đặc biệt được mua bán và sử dụng, trong khi thuế carbon sẽ phải tập trung vào phát thải khí nhà kính.
Thuế bảo vệ môi trường đánh vào việc sản xuất và nhập khẩu hàng hóa có tác động xấu đến môi trường. Mức thuế là cố định và áp lên mỗi đơn vị hàng hóa. Mức thuế tuyệt đối của thuế bảo vệ môi trường có thể không phản ánh đầy đủ lượng khí phát thải để trực tiếp giảm phát thải khí nhà kính như thuế carbon. Bên cạnh đó, các khoản thu từ thuế được đưa vào ngân sách nhà nước và được quản lý, phân bổ theo chương trình, kế hoạch chi của ngân sách nhà nước.
Do đó, đại diện nhóm rà soát cho rằng việc ban hành thuế carbon mới (nếu có) có nguy cơ chồng chéo với thuế bảo vệ môi trường hiện tại do hai sắc thuế này có một số mục tiêu chung, điều này có khả năng dẫn đến tình trạng đánh thuế hai lần đối với cùng một đối tượng chịu thuế.
Thách thức hơn, ông Minh lo ngại lộ trình (sửa đổi Luật) có thể mất ít nhất 3 năm kể từ khi bắt đầu thực hiện. Hơn nữa, hiện tại chưa có chỉ đạo về việc bắt đầu thực hiện lộ trình này.
Còn với phương án tích hợp thuế carbon tại phí bảo vệ môi trường đối với khí thải, phí bảo vệ môi trường có nhiều đặc điểm tương đồng với thuế carbon. Dự thảo Nghị định quy định phí bảo vệ môi trường đối với khí thải đã được lên kế hoạch và cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo hiện đang tiến hành các bước xây dựng Nghị định này.
“Do đó, có một cơ hội để thảo luận về thuế carbon được lồng ghép vào Nghị định phí bảo vệ môi trường sửa đổi. Dựa trên kinh nghiệm của tư vấn, có thể ban hành Nghị định này trước ngày CBAM có hiệu lực vào năm 2026”, ông Minh đề xuất.
CẦN MINH BẠCH MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG THUẾ CARBON
Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường, phạm vi thu phí bảo vệ môi trường cũng bao gồm các hoạt động liên quan tới phát thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường hoặc làm phát sinh các tác động tiêu cực đến môi trường. Với các quy định này, phí bảo vệ môi trường có thể được tính toán dựa trên khối lượng của các chất gây ô nhiễm thải ra môi trường.
Hơn nữa, nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường, sau khi trừ các khoản phí được để lại, có thể được phân bổ cho ngân sách địa phương. Khoản này có thể dành cho các hoạt động liên quan đến bảo vệ môi trường…
Trên thế giới đang có hơn 40 quốc gia và hơn 20 tỉnh, thành phố, tiểu bang đang áp dụng các cơ chế định giá carbon và có kế hoạch mở rộng trong tương lai.
Việt Nam hiện đang xây dựng và thực hiện kế hoạch triển khai hệ thống giao dịch phát thải, cũng như nghiên cứu về tiềm năng của các công cụ định giá carbon khác, không chỉ nhằm đạt được các cam kết khí hậu của quốc gia, mà còn để chuẩn bị ứng phó với các chính sách khí hậu của các quốc gia khác như CBAM của EU.
Vì vậy, việc tìm hiểu và học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế liên quan đến thuế carbon là rất quan trọng trong việc xây dựng đề xuất thiết kế thuế carbon cho Việt Nam.
Ông Axel Michaelowa, chuyên gia của Perspectives Climate Group, chia sẻ có nhiều cơ chế thị trường để giảm phát thải, như hệ thống định giá carbon bao gồm hạn ngạch phát thải hoặc hệ thống thuế carbon, dựa vào chứng chỉ năng lượng tái tạo để có mức thuế carbon… Để xây dựng hệ thống thuế carbon, Việt Nam cần chú ý tới các yếu tố thiết kế chính, như phạm vi áp dụng, đo lường hàm lượng carbon trong nhiên liệu hóa thạch…
Bên cạnh đó, việc đánh thuế carbon cần xem xét dựa trên quá trình nào (trong quá trình khai thác hay sản xuất, hoặc xuất khẩu, tiêu thụ…)? Nếu đánh thuế thấp sẽ không tạo ra động lực giảm phát thải, nhưng nếu mức thuế cao quá sẽ gây ra nhiều tiêu cực...
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 37-2023 phát hành ngày 11-09-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Cà phê giảm phát thải: Con đường nông nghiệp xanh của Sơn La
Trên hành trình xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát thải thấp, Sơn La đang khoác lên mình màu xanh mới. Nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp cùng nhau thay đổi thói quen canh tác: bớt phụ thuộc vào phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, thay bằng chế phẩm sinh học, quy trình hữu cơ và kỹ thuật thân thiện môi trường, hướng tới một nền sản xuất bền vững, an lành…
Xuất khẩu tôm 8 tháng đạt gần 3 tỷ USD, tăng trưởng 23%
Xuất khẩu tôm Việt Nam tiếp tục duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ, 8 tháng năm 2025 đạt gần 3 tỷ USD, tăng 23% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, Trung Quốc và EU trở thành động lực chính, còn Mỹ nổi lên như thị trường trọng yếu nhưng tiềm ẩn nhiều thách thức về thuế…
Quản lý, bảo vệ và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước đứng trước nhiều thách thức
Mức đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia của Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức, hiện nay chỉ đạt mức 2/5, trong khi đó ở Indonesia đạt mức 3/5, Hàn Quốc và Úc đạt 4/5 là mức cao nhất thế giới năm 2020…
DEF - Phú Mỹ Xanh: Giải pháp xử lý khí thải cho động cơ diesel
DEF - Phú Mỹ Xanh không chỉ là một sản phẩm hóa chất đơn thuần mà còn là một giải pháp thiết thực cho vấn đề ô nhiễm không khí tại Việt Nam. Sản phẩm này không chỉ giúp các phương tiện giao thông và thiết bị công nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn khí thải mà còn góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường, hướng tới một tương lai xanh và bền vững cho Việt Nam…
Nghệ An bàn giải pháp nâng cao chất lượng chế biến gỗ và lâm sản
Ngành chế biến gỗ và lâm sản đang trở thành một trong những hướng đi quan trọng của Nghệ An, vừa khai thác lợi thế tài nguyên rừng, vừa đóng góp lớn cho xuất khẩu...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: