
Giá vàng trong nước và thế giới
VnEconomy cập nhật giá vàng trong nước & thế giới hôm nay: SJC, 9999, giá vàng USD/oz, biến động giá vàng tăng, giảm - phân tích, dự báo & dữ liệu lịch sử.
Thứ Bảy, 13/12/2025
Nguyễn Hoài
27/10/2011, 08:53
Nếu các tổ chức tín dụng không có kế hoạch đốc thúc thu hồi nợ thì con số mất trắng trên 37 nghìn tỷ đồng là nguy cơ nhãn tiền
Nợ xấu toàn hệ thống tổ chức tín dụng đến hết tháng 8/2011 ở mức chấp nhận được, với tỷ trọng 3,21%/tổng dư nợ,
nhưng trong bức tranh chung
vẫn nổi lên hai điểm đáng ngại: nguy cơ thất thoát trên 37 nghìn tỷ đồng tiền vốn và vùng kinh tế Bắc Trung bộ đang là điểm đen của nợ xấu.
Số liệu từ một đơn vị nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến hết tháng 8/2011, tỷ lệ nợ nhóm 1 (đủ tiêu chuẩn) chiếm 90,89%, nợ nhóm 2 (cần chú ý) chiếm 5,89%, nợ không đủ tiêu chuẩn (còn gọi là nợ xấu từ nhóm 3, 4, 5) chiếm 3,21%.
So tháng 8/2011 với tháng 7/2011, thì nợ nhóm 1 tăng 0,37%, nhóm 2 giảm 0,44%, còn nợ xấu tăng 0,07%.
Chưa kịp mừng, đã vội lo
Tính đến hết tháng 8/2011, tổng dư nợ toàn ngành, kể cả quy đổi ngoại tệ, ước đạt trên 2,3 triệu tỷ đồng, tăng trên 34 nghìn tỷ đồng, tương ứng tăng 1,45% so với tháng trước và tăng 9,58% so với 31/12/2010.
Điểm đáng mừng trong bức tranh nợ toàn ngành của tháng 8/2011 chính là nợ nhóm 1 tăng gần 40 nghìn tỷ đồng mặc dù ở tháng 7/2011, tỷ lệ nợ này giảm. Lý do nợ nhóm 1 của tháng 8 tăng là do tỷ lệ nợ nhóm 2/tổng dư nợ của tháng này kéo xuống mức 5,89% sau khi giảm được 0,44% so với tháng trước.
Và mặc dù biểu đồ nợ nhóm 1 và 2 diễn biến ngược chiều theo hướng tích cực (nợ nhóm 1 tăng, nợ nhóm 2 giảm), nhất là khi cơ cấu 2 nhóm nợ này chiếm tới 96,78%/tổng dư nợ nhưng không vì thế mà mối lo nợ xấu lại nhẹ đi.
Đầu tiên, tính đến hết tháng 8, nợ xấu toàn ngành ở mức trên 76 nghìn tỷ đồng và nếu xét về tốc độ tăng thì nợ xấu của tháng 8 vẫn tăng 0,07% so với tháng 7/2011. Điều đáng lo là từ đầu năm đến nay, nợ xấu liên tục tăng, nếu so với thời điểm tháng 8/2010 thì nợ xấu đã tăng từ mức 2,53% lên 3,21%.
Trong tổng số nợ xấu trên 76 nghìn tỷ đồng nói trên thì cơ cấu nợ nhóm 3 chiếm 30,18%, nhóm 4 chiếm 20,53% và nhóm 5 chiếm trên 49%. Theo quyết định 493 về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro thì nợ nhóm 5 là “nợ có khả năng mất vốn”.
Điều đó đồng nghĩa, các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất trắng khoảng 37,2 nghìn tỷ đồng. Mặc dù nếu so sánh với tổng dư nợ toàn hệ thống thì nợ nhóm 3 chiếm 0,97%, nhóm 4: 0,66%, nhóm 5 chiếm 1,58% và nợ xấu vẫn ở mức an toàn.
Tuy nhiên, đáng lo là tỷ trọng nợ nhóm 5 lên tới 1,58% và chiếm một nửa số nợ không đủ tiêu chuẩn. Và nếu các tổ chức tín dụng không có kế hoạch đốc thúc thu hồi nợ thì con số mất trắng trên 37 nghìn tỷ đồng là nguy cơ nhãn tiền.
Điều đáng lưu ý là trong số 114 tổ chức tín dụng hiện nay, mặc dù số lượng tổ chức tín dụng có nợ xấu đã giảm mạnh so với tháng trước, nhưng vẫn có tới 39 đơn vị có tỷ lệ nợ không đủ tiêu chuẩn tăng mạnh.
Tuy nhiên, trái ngược với các đơn vị để nợ xấu tăng cao, vẫn có nhiều đơn vị kiểm soát nợ xấu rất tốt mà ABBank là một ví dụ. Theo đó, hết tháng 8/2011, nợ nhóm 1 của ABBank tăng cao nhất của khối ngân hàng thương mại cổ phần với mức tăng 3,67% trong khi nợ nhóm 2 giảm mạnh nhất so với toàn hệ thống với mức 3,43%.
Đặc biệt, trong tháng 8, nợ xấu ABBank giảm 3,65%, trong đó, nợ nhóm 4 và 5 giảm rất mạnh so với tháng trước ở mức âm 0,15% và âm 0,14%.
“Chúa Chổm” ở Bắc Trung Bộ!
Tính đến hết tháng 8/2011 so với tháng 7/2011, dư nợ cho vay vùng kinh tế Bắc Trung Bộ tăng thêm 2,3 nghìn tỷ đồng, tương ứng tăng 2,15%; còn so với 31/12/2010, con số trên tăng vượt 13 nghìn tỷ đồng, tương ứng tăng trên 13%. Trong đó, nợ nhóm 1 chiếm 92,43%, nhóm 2: 5,63% và nhóm 3,4,5 chiếm 1,95% trên dư nợ cho vay của vùng.
So với 8 vùng kinh tế cả nước thì nợ xấu ở Bắc Trung Bộ đang là nỗi lo ngại thực sự cho các tổ chức tín dụng giải ngân vào khu vực này.
Cụ thể, nợ không đủ tiêu chuẩn (nhóm 3, 4, 5) vùng này đến hết tháng 8/2011 ước đạt 2,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 2,8% nợ không đủ tiêu chuẩn toàn hệ thống. Điều đáng lưu ý là trong 3 tháng liền, nợ xấu của vùng tiếp tục tăng mạnh.
Còn so với 31/12/2011, nợ không đủ tiêu chuẩn của vùng tăng 1,11%, trung bình mỗi tháng trong 8 tháng đầu năm, nợ xấu tăng gần 0,14%/tháng.
Trong tổng số nợ xấu 2,1 nghìn tỷ đồng nói trên, nợ nhóm 3 chiếm 54,38%; nhóm 4 chiếm 32,23% và nhóm 5 chiếm 13,39%. Như vậy, những tổ chức tín dụng bị dính nợ nhóm 5 ở khu vực này đang đối mặt với thất thoát vốn 287,7 tỷ đồng.
Trong số các tỉnh ở Bắc Trung Bộ thì Nghệ An là địa phương đứng đầu về tốc độ tăng nợ xấu với mức 0,83%, sau đó là Thừa Thiên Huế: 0,48%, Quảng Trị: 0,43%, Hà Tĩnh: 0,12% và cuối cùng là Thanh Hóa với 0,02%.
Quan sát tổng thể nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng, thấy nổi lên một số điểm chú ý:
Trước hết, tốc độ tăng nợ xấu, đặc biệt là ở các nhóm 3, 4, 5 tăng liên tục qua các tháng. Đây là điều đáng lo khi mà thời điểm cuối năm, các ngân hàng đứng trước áp lực thu hồi vốn trả khách hàng để họ chi trả thanh lý hợp đồng; có thêm nguồn thực hiện các cam kết tài chính; kết chuyển sổ sách cuối năm. Những áp lực này càng tăng thêm khi mà tốc độ tăng trưởng tiền gửi đang có dấu hiệu chững lại.
Thứ hai, tốc độ tăng nợ xấu cao, tỷ trọng nợ xấu ở các nhóm 4, 5 lan rộng thêm trong cơ cấu nợ không đủ tiêu chuẩn, sẽ là những tín hiệu lo ngại về nguy cơ thất thoát vốn ở các tổ chức tín dụng.
Ở một bình diện khác, Ngân hàng Nhà nước vẫn kiên trì với chính sách thắt chặt tiền tệ: tăng trưởng tín dụng không quá 20% trong năm nay; đồng thời, đến 31/12/2011, họ phải đưa tỷ trọng tín dụng phi sản xuất từ 22% xuống 16%. Như vậy, chẳng những tín dụng không được bơm tiếp mà còn bị thu hẹp lại, dẫn đến các dự án sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là các dự án đang dính vào nợ nhóm 4 và 5. Lúc đó, các tổ chức tín dụng sẽ khó lấp liếm được nợ xấu và quá trình mất vốn sẽ lộ diện nhanh hơn.
Thứ ba, quan sát gần đây trên thị trường thấy rằng, một số đơn vị đã có những xáo trộn về nhân sự lãnh đạo. Theo đó, một số ngân hàng đề bạt tổng giám đốc xuất thân từ nghiệp vụ chính là kế toán, kiểm toán, nhiều năm làm kiểm soát nội bộ như ABBank; hoặc trong ban điều hành của MB có một phó tổng giám đốc với nghề chính là kế toán, kiểm soát nội bộ. Điều này cho thấy, những đơn vị nào biết lo giữ hầu bao, “ăn chắc, mặc bền”, nhất là trong bối cảnh thị trường diễn biến phức tạp, đơn vị đó sẽ kiểm soát tốt rủi ro và vẫn cân đối nguồn lành mạnh.
Tính đến ngày 11/12, Hệ thống thông tin hỗ trợ quản lý, giám sát và phòng ngừa rủi ro gian lận trong hoạt động thanh toán của Ngân hàng Nhà nước (SIMO) đã phát cảnh báo gian lận, lừa đảo tới 2,13 triệu lượt khách hàng. Trong đó, hơn 670 nghìn lượt khách đã chủ động tạm dừng hoặc hủy bỏ giao dịch sau khi nhận được cảnh báo, với tổng giá trị giao dịch tương ứng lên tới hơn 2.570 tỷ đồng…
Đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết việc xây dựng Sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ được nghiên cứu theo hướng thận trọng, có lộ trình rõ ràng và bám sát thực tiễn, trong bối cảnh thị trường vàng trong nước biến động mạnh và nhu cầu hoàn thiện cơ chế quản lý ngày càng cấp thiết...
Cập nhật biểu lãi suất tiết kiệm của hơn 30 ngân hàng ngày 8/12 so với cuối tháng 11, nhiều đơn vị tiếp tục tăng lãi suất khoảng 0,5 đến 0,6 điểm phần trăm ở các kỳ hạn dưới 9 tháng. Đối với lãi suất 12 tháng, có đơn vị tăng 1,2 điểm phần trăm so với cuối tháng 11/2025. Mức chênh lệch lãi suất huy động giữa các ngân hàng khá lớn, phản ánh chiến lược huy động vốn khác nhau…
Kết thúc phiên sáng 8/12, tỷ giá USD trên thị trường tự do phục hồi nhẹ sau nhịp giảm sâu tuần trước. Mỗi USD chiều mua tăng 30 đồng, lên mức 27.230 VND; chiều bán tăng 40 đồng với 27.300 VND. Đáng chú ý, chênh lệch giữa tỷ giá tự do và tỷ giá chính thức thu hẹp rõ rệt, từ mức 1.522 đồng hồi giữa tháng 11 xuống còn khoảng 890 đồng/USD hiện nay…
Chiều 5/12, Quốc hội đã biểu quyết và thông qua Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi). Theo quy định, Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng... phải thực hiện kịp thời yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự (dù bằng văn bản giấy hay điện tử).
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: