WB dự báo tăng trưởng của Việt Nam giảm dần hai năm tới
Nhận định tại ấn phẩm bán thường niên về kinh tế về Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB) phát hành ngày 11/12
Nền kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ tăng trưởng ở mức gần 6,8% trong năm 2018, trước khi giảm dần xuống lần lượt còn 6,6% và 6,5% trong các năm 2019 và 2020, chủ yếu do sức cầu bên ngoài yếu đi.
Đó là nhận định tại ấn phẩm bán thường niên về kinh tế về Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB), phát hành ngày 11/12.
Theo báo cáo thì lạm phát vẫn được duy trì thấp ở mức 4% do chính sách tiền tệ sẽ được thắt chặt.
"Cho dù bối cảnh toàn cầu có nhiều thách thức, Việt Nam tiếp tục đạt tăng trưởng vững, song song với lạm phát ở mức vừa phải và tỷ giá tương đối ổn định," theo ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam.
Phân tích tại báo cáo, nhìn từ phía cầu, sức cầu trong nước vẫn đứng vững nhờ tiêu dùng và đầu tư vẫn tăng trưởng tốt.
Tiêu dùng cuối cùng và đầu tư dự kiến đóng góp lần lượt 5,3 và 2,4 điểm phần trăm cho tổng tăng trưởng GDP năm 2018. Trong 9 tháng đầu năm 2018, đầu tư tăng 10,9% (so cùng kỳ năm trước) theo giá hiện hành, nâng tổng chi đầu tư lên khoảng 34% GDP tính đến quý 3, so với 33,3% trong năm 2017.
Đầu tư của khu vực đầu trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 8,4% trong kỳ (so cùng kỳ năm trước), đóng góp gần một phần tư cho tổng chi đầu tư tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, đầu tư công cũng được đẩy mạnh trong quý 3 của năm, đóng góp được khoảng 33,6% cho tổng đầu tư.
Cho dù có tăng lên, nhưng tỷ trọng đầu tư công thể hiện xu hướng giảm rõ rệt trong những năm gần đây, từ 12,4% GDP năm 2016 xuống 11,9% năm 2017 và dự kiến đạt 11,4% năm 2018, do Chính phủ cắt giảm chi đầu tư để hỗ trợ củng cố tình hình tài khóa.
Đầu tư công giảm xuống trong thời gian qua được bù lại còn nhiều hơn bởi nguồn đầu tư mạnh mẽ của tư nhân trong nước và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) liên tục đổ vào, dẫn đến tỷ trọng tổng đầu tư trên GDP tăng lên trong những năm gần đây.
Báo cáo cũng nêu rõ, kết quả tăng trưởng tốt trong những năm qua đã hỗ trợ đẩy mạnh tạo việc làm và nâng cao thu nhập người lao động. Tỷ lệ thất nghiệp chính thức của Việt Nam rất thấp, chỉ khoảng 2%.
Tương tự, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tương đối cao, đạt 76,6% trong quý 2/ 2018 tính cho dân số độ tuổi từ 15 trở lên. Thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng 10,5USD mỗi năm theo giá hiện hành suốt giai đoạn 2010 - 2017 (khoảng 4% theo giá so sánh).
Cụ thể, thu nhập của lao động trong khu vực nhà nước tăng 8,9% theo giá hiện hành trong cùng kỳ, thu nhập của lao động trong các doanh nghiệp khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài tăng lần lượt 11,6% và 11,4% mỗi năm.
Trong năm 2017, lao động của Việt Nam có mức thu nhập bình quân hàng tháng đạt 8,3 triệu VND, tăng 10,1% so cùng kỳ năm trước (khoảng 6,6% theo giá so sánh), nhờ cải thiện năng suất lao động.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng trong bối cảnh thương mại Việt Nam có độ mở cao, dư địa chính sách tài khóa và tiền tệ còn hạn chế, Việt Nam vẫn dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động bên ngoài.
Căng thẳng thương mại toàn cầu leo thang có thể dẫn đến suy giảm nhu cầu về các mặt hàng xuất khẩu, đồng thời thanh khoản trên toàn cầu bị thắt chặt có thể làm giảm dòng vốn đầu tư cũng như đầu tư nước ngoài. Trong nước, cải cách doanh nghiệp nhà nước và khu vực ngân hàng chậm lại có thể ảnh hưởng đến viễn cảnh tăng trưởng và gia tăng các nghĩa vụ cho khu vực công.
"Tăng trưởng toàn cầu giảm tốc, căng thẳng thương mại đang diễn ra và rủi ro tài chính tăng cao đang che mờ triển vọng toàn cầu", theo nhận định của ông Sebastian Eckardt, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam.
Chuyên gia WB khuyến nghị, "là một nền kinh tế mở, Việt Nam cần duy trì chính sách tiền tệ có khả năng ứng phó, tỷ giá linh hoạt và bội chi ngân sách thấp để nâng cao khả năng chống chịu những cú sốc có thể diễn ra."
Trong bối cảnh Hiệp định Hợp tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Tự do Thương mại Việt Nam – EU (EVFTA) vừa được thông qua, phần chuyên đề đặc biệt của ấn bản Báo cáo Điểm lại kỳ này tập trung bàn về việc đơn giản hóa các biện pháp phi thuế quan nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam.
Báo cáo nhận định rằng mặc dù thuế quan đang giảm nhanh nhưng số lượng các biện pháp phi thuế quan lại đang tăng lên. Mức thuế ưu đãi bình quân của Việt Nam đã giảm từ 13,1% năm 2003 xuống còn 6,3% năm 2015.
Ngược lại, số lượng các biện pháp phi thuế quan lại tăng đến trên 20 lần trong cùng kỳ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các biện pháp phi thuế quan, nếu được thiết kế và triển khai không tốt, có thể gây hạn chế thương mại, làm méo mó giá cả, và suy yếu năng lực cạnh tranh quốc gia.
Theo báo cáo, hệ thống các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam vẫn còn phức tạp, chưa rành mạch và tốn kém, dẫn đến chi phí tuân thủ cao.
Một nghiên cứu đưa ra ước tính rằng thuế quan trị giá tương đương của các biện pháp vệ sinh dịch tễ mà Việt Nam đang áp cho hàng nhập khẩu hiện ở mức 16,6%, so với mức bình quân là 8,3% ở các quốc gia ASEAN.