Phí trách nhiệm mở rộng nhà sản xuất: Nỗi lo của doanh nghiệp nhựa
Song Hà
03/07/2023, 14:00
Phí trách nhiệm mở rộng nhà sản xuất được áp dụng với nhóm nhựa bao bì sẽ có hiệu lực bắt đầu từ 1/1/2024. Quy định này hướng tới một ngành sản xuất nhựa thân thiện với môi trường, tuy nhiên đây cũng là thách thức cho doanh nghiệp trong việc thực hiện tuân thủ.
Doanh nghiệp nhựa lo mức trách nhiệm mở rộng nhà sản xuất sẽ tác động tới người tiêu dùng
Hiệp hội nhựa Việt Nam cho biết trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đã được quy định tại một số văn bản pháp lý quan trọng, như: Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 ban hành ngày 17/11/2020 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2022; Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, Nghị định số 45/2022/NĐ-CP ngày 07/7/2022 của Chính phủ và Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
NỖI LO ĐỊNH MỨC CHI PHÍ TÁI CHẾ
Theo đó, nhà sản xuất, nhập khẩu đưa vào thị trường Việt Nam có trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải đối với sản phẩm, bao bì chứa chất độc hại, khó có khả năng tái chế hoặc gây khó khăn cho thu gom, xử lý (trách nhiệm này được thực hiện từ 10/01/2022) và trách nhiệm tái chế đối với sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế.
Phí EPR sẽ thực hiện từ ngày 1/1/2024 đối với các sản phẩm gồm pin-ắc quy, săm lốp, dầu nhớt và bao bì; từ ngày 1/1/2025 đối với các sản phẩm điện, điện tử; từ ngày 1/1/2027 đối với phương tiện giao thông.
Bà Huỳnh Thị Mỹ, Tổng thư ký Hiệp hội nhựa Việt Nam, cho biết ngành nhựa chia thành 4 nhóm ngành chính: nhựa bao bì, nhựa gia dụng, nhựa xây dựng và nhựa kỹ thuật.
Song, chỉ có nhóm nhựa bao bì (gồm bao bì trực tiếp và bao bì ngoài của sản phẩm, hàng hóa) là chịu ảnh hưởng của phí EPR. Vì bao bì là sản phẩm được sử dụng hàng ngày nhiều (bao bì thực phẩm; mỹ phẩm; phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y; chất tẩy rửa, chế phẩm dùng trong lĩnh vực gia dụng, nông nghiệp, y tế; xi măng) nên lượng thải ra môi trường lớn, trong khi chúng ta chưa có giải pháp thu gom, tái chế.
Quy định EPR chia theo ba nhóm chủng loại nguyên liệu để tính mức thu hồi tái chế: nguyên liệu PET – các sản phẩm dễ thu gom, tái chế, mức thu hồi là 22%; bao bì HDPE, LDPE, PP, PS cứng, tỷ lệ thu gom tối thiểu 15%; bao bì PVC, tỷ lệ thu gom 10%.
Có ba nhóm nhựa bao bì được loại trừ không phải tính EPR là nhà sản xuất các sản phẩm, bao bì để xuất khẩu hoặc tạm nhập, tái xuất hoặc sản xuất, nhập khẩu cho mục đích nghiên cứu, học tập, thử nghiệm; nhà sản xuất bao bì có doanh thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ của năm trước dưới 30 tỷ đồng; nhà nhập khẩu bao bì có tổng giá trị nhập khẩu (tính theo trị giá hải quan) của năm trước dưới 20 tỷ đồng.
Quy định cũng đưa ra hình thức thực hiện trách nhiệm tái chế: có thể doanh nghiệp tự thực hiện tái chế, thuê đơn vị tái chế hay ủy quyền cho tổ chức trung gian tái chế hoặc kết hợp các cách thức trên để tái chế.
Theo quy định này, định mức chi phí tái chế là vấn đề khiến các doanh nghiệp ngành nhựa rất lo lắng. Định mức chi phí tái chế (Fs) sẽ được Thủ tướng Chính phủ quyết định ban hành vào cuối năm 2023 để các nhà sản xuất, nhập khẩu bao bì có thể thực hiện trách nhiệm của mình từ năm 2024.
Việc xác định Fs sẽ quyết định đến việc thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu. Đây là một trong những yếu tố để xác định mức đóng góp của nhà sản xuất vào Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam.
Bà Mỹ cho biết hiện tại mức phí này là bao nhiêu vẫn đang được các bên tính toán sao cho hợp lý; tuy nhiên, mức phí này đang được dự kiến khá cao, đây là nỗi lo lắng cực lớn của doanh nghiệp sản xuất nhựa.
Hơn nữa, số tiền phí này đòi hỏi doanh nghiệp phải đóng trước 50% cho Nhà nước dựa trên mức doanh thu năm trước đó. “Hiệp hội đang có ý kiến để mức phí thấp nhất có thể. Nếu phí cao quá, doanh nghiệp sẽ tính vào giá thành sản phẩm, người tiêu dùng sẽ là đối tượng chịu ảnh hưởng của mức phí này”, bà Mỹ cho hay.
Lấy ví dụ cụ thể, bà Mỹ đặt bài toán, nếu một tháng doanh nghiệp bán ra thị trường nội địa 100 tấn sản phẩm PP (dựa trên hóa đơn chứng từ của doanh nghiệp), đồng nghĩa tháng đó doanh nghiệp có nghĩa vụ thu hồi lại 15% tức là 15 tấn phải tái chế. Nếu không, doanh nghiệp sẽ phải thuê công ty tái chế, phải trả tiền cho công ty tái chế hoặc trả cho việc bảo vệ môi trường được Hội đồng EPR quản lý.
Tính sơ, nếu một doanh nghiệp có doanh thu 200 tỷ đồng/năm trước đó, thì theo mức phí Fs hiện nay (mức Bộ Tài nguyên và Môi trường đang dự thảo) doanh nghiệp phải đóng khoảng 4 tỷ đồng.
“Trong khi doanh nghiệp chưa làm gì mà đã phải đóng trước 50% phí này cho Nhà nước sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế đang chịu thiệt hại nặng nề sau đại dịch như hiện nay. Do đó, cho phép doanh nghiệp cuối năm hoặc đầu năm sau quyết toán và đóng phí, chứ không thể chưa làm gì đã đóng phí, khiến dòng tiền vay của doanh nghiệp đã khó lại càng khó hơn”, bà Mỹ kiến nghị.
NGHIÊN CỨU KỸ EPR ĐỂ ĐỊNH HƯỚNG SẢN XUẤT
Các ý kiến chuyên gia đều nhận định, công cụ EPR được coi là thành công không phải là Quỹ Bảo vệ môi trường nhận được nhiều đóng góp, mà là khi không còn doanh nghiệp nào đóng phí EPR vào Quỹ nữa.
Tuy nhiên, để đạt được điều này không hề đơn giản, bởi trong gần 4.000 doanh nghiệp nhựa trên cả nước thì có tới 90% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh thu dưới 200 tỷ đồng/năm. Doanh nghiệp có doanh thu trên 200 tỷ đồng/năm chỉ chiếm 8%, trên 1.000 tỷ đồng chỉ chiếm 1,2%.
Vì vậy, nhiều chuyên gia đề nghị Việt Nam nên đi từng bước, trước hết cần xây dựng khung chính sách. Bộ Tài nguyên và Môi trường cần đưa ra quy trình xử lý chất thải nguy hại có trong sản phẩm thải bỏ, để từ đó có căn cứ tính giá thành tái chế, xử lý; tăng cường cơ sở hạ tầng về thu gom rác thải và tái chế; tạo ra cơ chế chính sách với những quy định thuận lợi cho tái chế, thu gom; đồng thời, cần có chính sách thu hút đầu tư cho tái chế…
Với khu vực doanh nghiệp, Vụ Pháp chế (Bộ Tài nguyên và Môi trường), khuyến nghị các doanh nghiệp thuộc đối tượng phải thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất cần tìm hiểu kỹ quy định EPR hiện hành để xác định những sản phẩm, bao bì thuộc diện phải thu gom, tái chế theo tỷ lệ tái chế bắt buộc và quy cách tái chế bắt buộc để thực hiện trách nhiệm của mình theo đúng pháp luật...
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 27-2023 phát hành ngày 03-07-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
H&M rót vốn khử carbon trong chuỗi cung ứng tại Việt Nam
Việt Nam là một thị trường chiến lược với nhiều cơ hội tăng trưởng. Vì vậy, H&M tin tưởng rằng việc chuyển đổi sang năng lượng tái tạo và khử carbon sẽ không chỉ giúp công ty đạt được các mục tiêu khí hậu, mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế...
Logistics Việt Nam hút các “ông lớn” vận tải, đầu tư quốc tế
Với lợi thế sản xuất, xuất khẩu và tiêu dùng tăng trưởng nhanh, Việt Nam ngày càng nổi bật trên bản đồ logistics khu vực. Không chỉ là điểm đến quan trọng của các hãng vận tải hàng đầu, mà còn thu hút nhiều thương vụ đầu tư lớn, mở ra cơ hội nâng cấp hạ tầng logistics…
Tiềm năng gia tăng nguồn cung tín chỉ carbon từ rừng trồng
Tín chỉ carbon rừng được tạo ra từ hoạt động trồng mới, tái trồng, phục hồi thảm thực vật và tăng cường quản lý rừng, đang mở ra một hướng đi tăng thu nhập lâu dài cho người dân trồng rừng. Đây không chỉ là công cụ tài chính mới, mà còn là giải pháp song hành cho quản lý, bảo vệ rừng, cải thiện sinh kế cộng đồng và ứng phó biến đổi khí hậu, đồng thời cũng là “tài sản xanh” trong cam kết Net Zero…
Ngành sản xuất Việt Nam tăng trưởng chậm lại trong bối cảnh nhu cầu giảm sút và áp lực thuế quan
Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam đã giảm từ mức 52,4 điểm của tháng 7 xuống còn 50,4 điểm trong tháng 8, cho thấy sự cải thiện của các điều kiện kinh doanh chỉ còn ở mức khiêm tốn. Dù vẫn nằm trên ngưỡng 50 điểm nhưng động lực tăng trưởng đang chững lại…
Gia Lai đánh thức đại ngàn: Những dự án thay đổi cuộc đời của đồng bào Ba Na
Trên mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ, cộng đồng người Ba Na hôm nay đang viết tiếp câu chuyện của riêng mình. Họ đang cùng nhau vươn lên bằng những mô hình kinh tế bền vững, từ những cánh đồng mía bạt ngàn đến các dự án quản lý rừng tiên tiến, mở ra một tương lai ấm no và thắp lên hy vọng cho cả đại ngàn.
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: