
Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025
Sáng kiến Diễn đàn thường niên Kinh tế mới Việt Nam (VNEF) đã được khởi xướng và tổ chức thành công từ năm 2023. VNEF 2025 (lần thứ 3) có chủ đề: "Sức bật kinh tế Việt Nam: từ nội lực tới chuỗi giá trị toàn cầu".
Thứ Sáu, 03/10/2025
Vân Nguyễn
23/08/2024, 20:15
Các chuyên gia cho rằng thị trường tín chỉ carbon rừng ngập mặn ven biển tại Việt Nam đầy tiềm năng nhưng thực tế vẫn còn mới. Nhà đầu tư muốn mua tín chỉ carbon chất lượng cao vẫn gặp khó khăn về các chính sách, quản trị và cần hoàn thiện cơ sở pháp lý...
Tại tọa đàm “Chia sẻ cập nhật thông tin về thị trường carbon từ hệ sinh thái rừng ven biển” do Trường Đại học Nông lâm TP.HCM phối hợp Tổ chức Nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế (CIFOR) và Viện Nghiên cứu môi trường – Đại học Adelaide (Australia) tổ chức, TS. Trần Đình Lý, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM, nhấn mạnh: “Các hệ sinh thái ven biển và đất ngập nước bao gồm rừng ngập mặn, đầm lầy, thủy triều, cỏ biển… đóng vai trò quan trọng trong việc thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu”.
Theo TS. Trần Đình Lý, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng rừng ngập mặn và đất ngập nước ven biển có khả năng hấp thụ carbon cao hơn rất nhiều so với các hệ sinh thái khác, đặc biệt là rừng nhiệt đới. Tuy nhiên, thị trường carbon xanh từ các hệ sinh thái này vẫn chưa được khai thác và phổ biến rộng rãi.
“Với tiềm năng lớn trong việc giảm thiểu biến đổi khí hậu, các hệ sinh thái ven biển đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư trên thị trường carbon toàn cầu. Tuy nhiên, việc thiếu thông tin và sự hạn chế trong giao dịch tín chỉ carbon xanh đã gây khó khăn trong việc phát triển các dự án hiệu quả”, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM nhấn mạnh.
Còn theo TS. Phạm Thu Thủy, Trung tâm Nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế (CIFOR) và Đại học Adelaide (Úc), trong vòng 20 năm trở lại đây, khi nói về thị trường carbon, 55% của toàn bộ các giao dịch liên quan tới thị trường carbon trên thế giới đều ở ngành lâm nghiệp. Ngoài giảm phát thải, tín chỉ carbon rừng còn có tiềm năng hỗ trợ cộng đồng, dân tộc thiểu số, từ đó có giá trị gia tăng về mặt xã hội.
“Nghiên cứu cho thấy rừng trên thế giới hấp thụ 15,6 GT Co2 mỗi năm. Lượng này gấp 3 lần lượng khí thải của Mỹ mỗi năm. Tuy nhiên khoản 8,1 GT rò rỉ chảy lại trong khí quyển do phá rừng, cháy rừng và phá hủy hệ sính thái khác”, TS. Phạm Thu Thủy nhận định.
Bên cạnh rừng ngập mặn, hệ sinh thái xanh dương (hệ sinh thái biển) còn có hệ sinh thái cỏ biển và đầm lầy bãi triều. Hiện hay, tiềm năng hệ sinh thái xanh dương lớn, nhưng số dự án không nhiều.
Tuy nhiên, theo bà Thủy, đây là thực trạng chung trên thế giới, các dự án về rừng ngập mặn ven biển tại các quốc gia hiện không nhiều. Thống kê cho thấy chỉ có khoảng 31 dự án tại các quốc gia trên thế giới.
“Về rủi ro chính sách cho tín chỉ carbon tại Việt Nam thì việc kinh doanh chắc chắn sẽ có rủi ro tại bất kì ngành nào, kinh doanh carbon cũng không nằm ngoài điều đó. Dù vậy, dưới góc nhìn kinh doanh, càng rủi ro thì càng cơ hội, người nắm bắt cơ hội trước sẽ là người chiến thắng.
Đơn cử, Singapore đang nắm bắt cơ hội này và mua các tín chỉ carbon với giá rẻ. Trong tương lai, xu thế tất yếu là các quốc gia sẽ càng siết chặt về giảm phát thải. Nhà đầu tư sẽ nhìn vào lâu dài, trên thị trường hiện nay việc nhà đầu tư giảm và ngừng mua mua chỉ chiếm 10% thị phần”.
TS. Phạm Thu Thủy, Trung tâm Nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế (CIFOR) và Đại học Adelaide (Úc).
Một điểm đáng lưu ý mà TS. Phạm Thu Thủy nhắc đến là những quốc gia có diện tích rừng ngập mặn lớn nhất trên thế giới nhưng lại không bán được tín chỉ carbon từ rừng ngập mặn. Khảo sát của CIFOR cho thấy các quốc gia giàu tài nguyên tín chỉ carbon này không tiến hành thương mại carbon rừng ngập mặn là vì họ cho rằng đây là ưu thế, tiềm lực tài nguyên quốc gia và ưu tiên cho những doanh nghiệp trong nước
Cùng với đó, qua quá trình nghiên cứu, bà Thủy cho rằng thương mại carbon rừng không chỉ phụ thuộc vào tiềm năng của mỗi quốc gia, mà hiện nay việc mà nhà đầu tư cần nữa chính là sự ổn định về hành lang pháp lý và sự hỗ trợ.
Theo TS. Phạm Thu Thuỷ, thị trường tín chỉ carbon hiện nay chủ yếu đi theo mô hình tư nguyện, đầu tư cho các hoạt động bồi hoàn trong tương lai. Giá bán tín chỉ carbon rừng ngập mặn cao hơn rất nhiều so với dự án trên cạn, dù vậy không có các số liệu cụ thể cho từng giao dịch.
Hiện, trên thế giới có 5 nước mua tín chỉ carbon nhiều nhất gồm Thụy Sĩ (15%), Mỹ (6%), Đức (3%), Hà Lan (3%) và Pháp (3%). Có 58 quốc gia bán tín chỉ carbon nhiều nhất. Trong đó, châu Phi có Kenya, Uganda; châu Mỹ Latinh có Peru, Colombia, Brazil; châu Á - Thái Bình Dương có Indonesia, Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar. Giá trung bình của 1 tín chỉ carbon toàn cầu là 11,2 USD/tấn.
Thị trường carbon hiện nay các nhà đầu tư lớn chủ yếu đến từ các ngành giao thông và vận chuyển logistics, công nghệ thông tin, nhà máy sản xuất, công ty dược phẩm, dịch vụ và các đơn vị nghiên cứu.
Dù vậy, TS. Phạm Thu Thủy nhận định trong 31 dự án tín chỉ carbon rừng ngập mặn trên thị trường hiện nay, người dân không được hưởng lợi và đây là thách thức lớn nhất của thị trường khi chưa có các chế lợi ích rõ ràng.
Về tài nguyên rừng ngập mặn tại Việt Nam, TS. Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý Rừng Bền vững (VFCO), cho biết hiện nay rừng ngập mặn ở Việt Nam có tổng diện tích khoảng 200.000 ha, 80% phân bố ở phía Nam tại vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
“Diện tích rừng ngập mặn chỉ chiếm 1% diện tích rừng toàn quốc, nhưng lượng carbon trong rừng ngập mặn lớn hơn so với các loại rừng khác. Chẳng hạn, 200.000 ha nhưng tổng lượng carbon lưu trữ trong rừng ngập mặn chiếm khoảng 1,5% tổng lượng carbon trong rừng, tương đương khoảng 8,7 triệu tấn carbon”, ông Phương cho biết.
Đồng tình, TS. Phạm Thu Thủy cho rằng Việt Nam có nhiều ưu thế phát triển thị trường carbon trong lâm nghiệp. Theo đó, tiềm năng thị trường carbon có giá trị cao như đa dạng sinh học thứ 16 trên thế giới; 25 triệu người nghèo dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng; diện tích và chất lượng rừng ngập mặn, rừng trên cạn tiềm năng; có thể tiến hành nhiều loại hình dự án (trồng mới và tái trồng rừng).
Bên cạnh đó, mặc dù tiềm năng cao tín chỉ carbon của rừng ngập mặn tại Việt Nam cao nhưng thực tế thị trường còn mới. Nhà đầu tư muốn mua tín chỉ carbon chất lượng cao vẫn gặp khó khăn về các chính sách và quản trị và cần hoàn thiện cơ sở pháp lý.
Đồng thời, cần nghiên cứu và thu thập số liệu, thẩm định kiểm chứng các chi phí và lợi ích liên quan đến thể chế, xã hội và môi trường mà tín chỉ carbon rừng mang lại.
Mặt khác, theo PGS.TS Viên Ngọc Nam, Trường Đại học Nông lâm TP.HCM, một trong những thách thức nữa của rừng ngập mặn tại Việt Nam nói chung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói là hiện tượng nước biển dâng cao dẫn đến hiện trạng hệ sinh thái thay đổi như giảm diện tích rừng và thành phần đa dạng các loài. Cùng với đó là vấn đề sạc lở đất ở khu vực này.
Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả không chỉ giúp doanh nghiệp tối ưu hóa chi phí sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế và bảo vệ môi trường. Mặc dù nhận thức rõ tầm quan trọng, nhưng trên thực tế, việc đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng của doanh nghiệp vẫn còn nhiều trở ngại…
Dựa trên tính toán, đánh giá tác động của các xu hướng truyền thống lên tốc độ tăng trưởng, TS. Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, nêu rõ: việc duy trì mô hình tăng trưởng trên cơ sở xu hướng, cách thức khai thác các động lực tăng trưởng truyền thống sẽ trở thành một thách thức lớn với mục tiêu tăng trưởng nếu không có thay đổi liên quan đến mô hình tăng trưởng...
Đây là thời điểm đất nước rất cần sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt, sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân để cùng kiến tạo một mô hình tăng trưởng mới, đưa Việt Nam bứt phá, đạt tăng trưởng hai con số. Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương Nguyễn Thanh Nghị nhấn mạnh bốn định hướng tập trung trao đổi để nâng cao năng lực nội sinh, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tạo sức bật cho kinh tế Việt Nam...
Kinh tế hóa môi trường, trong đó thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái và nâng cao hiệu quả của công cụ thuế môi trường, phí môi trường, hạn ngạch phát thải. Áp dụng triệt để nguyên tắc “Người được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho bảo vệ môi trường; người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý”...
Chứng khoán
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: