Nghiên cứu khả năng tăng thu thuế của người giàu để chia sẻ với người nghèo lúc khó khăn
Có rất nhiều biện pháp thiết thực mà các thành viên trong Ban Kinh tế Trung ương đề cập để hỗ trợ sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới sau khi kinh tế tổn thất nặng nề bởi Covid-19 gây ra, bao gồm giải pháp tăng thu thuế của người giàu để chia sẻ với người nghèo...
Bài tham luận gửi tới Diễn đàn Kinh tế Việt Nam mới đây của Ban Kinh tế Trung ương được thực hiện bởi ông Nguyễn Thành Phong - Phó trưởng Ban kinh tế Trung ương và ông Nguyễn Tú Anh - Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương.
Như VnEconomy đưa tin, một trong những đề cập chi tiết trong tham luận có ngụ ý chính sách về tăng thuế giao dịch chứng khoán một mặt hỗ trợ nguồn thu ngân sách Nhà nước, mặt khác hạn chế đầu cơ trên thị trường chứng khoán.
TĂNG THU THUẾ NGƯỜI GIÀU ĐỂ HỖ TRỢ NGƯỜI NGHÈO
Và còn rất nhiều giải pháp khác nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh và kích thích tăng trưởng kinh tế, bao gồm gói kích thích kinh tế tăng chi tiêu từ ngân sách của Việt Nam, nếu thực hiện khoảng 3% GDP thì có thể đảm bảo trong trung hạn các chỉ tiêu ổn định kinh tế vĩ mô có thể quay lai mức bình thường.
Đối với chính sách về thuế, một số nội dung quan trọng như: Để hỗ trợ tiêu dùng trong nước cần tính tới điều chỉnh giảm thích hợp thuế VAT. Để giảm áp lực lên tài khóa, cần thay đổi một số chính sách thuế trong thời gian 2 năm. Nghiên cứu khả năng tăng đánh thuế thu nhập cá nhân của người giàu để chia sẻ với người nghèo trong thời kỳ khó khăn.
Các chủ trương đã có hỗ trợ sản xuất kinh doanh đã có như gia hạn thời hạn nộp, miễn, giảm thuế, phí, lệ phí cần sớm thể chế hóa với các thủ tục hành chính đơn giản và tổ chức triển khai để doanh nghiệp sớm nhận được hỗ trợ.
Đối với chính sách hỗ trợ từ ngân sách, tận dụng thời cơ lãi suất thấp, thanh khoản thị trường dồi dào để bổ sung nguồn vốn đầu tư công, thay thế nguồn vốn vay nước ngoài có lãi suất cao và cơ cấu lại danh mục trái phiếu Chính phủ theo hướng ưu tiên phát hành kỳ hạn dài từ 5 năm trở lên. Nghiên cứu, kiến nghị Quốc hội cho phép Bộ Tài chính quản lý việc phát hành trái phiếu Chính phủ theo kỳ hạn phát hành bình quân và được chủ động kế hoạch phát hành trong năm ngân sách để huy động vốn thay vì quy định “cứng” khối lượng trái phiếu Chính phủ kỳ hạn từ 5 năm trở lên.
Các khoản hỗ trợ doanh nghiệp nên tập trung vào giảm chi phí hoạt động cho doanh nghiệp như giảm chi phí điện, nước, tiền lương của người lao động. Chính phủ có thể trợ cấp một phần trăm nhất định cho các doanh nghiệp trong các chi phí này.
Tuy nhiên cần tuân thủ nguyên tắc chi tiêu của gói kích thích phải có tính khuyến khích khắc phục những điểm yếu của nền kinh tế mà lâu nay chưa thực hiện được: (i) lao động làm việc trong khu vực chính thức nhưng lại dưới dạng phi chính thức (không có hợp đồng lao động, không có bảo hiểm xã hội); (ii) khu vực phi chính thức quá lớn; (iii) thiếu cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể và sự di biến động của các doanh nghiệp và các hộ này.
Về chính sách tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, tiếp tục duy trì ổn định tỷ giá, giảm dần mặt bằng lãi suất, nhất là lãi suất cho vay một cách chủ động. Mở rộng tín dụng cho nền kinh tế nhưng không hạ chuẩn mực cấp tín dụng gắn với cơ cấu lại nợ có thời hạn và có điều kiện để không làm méo mó rủi ro ro tín dụng, che dấu nợ xấu, chất lượng tài sản. Các Ngân hàng Thương mại nhà nước phải đi tiên phong trong việc hạ lãi suất cho vay.
Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá. Chính sách tiền tệ là nền tảng để cứu các doanh nghiệp yếu kém, chính sách tiền tệ là quan trọng cho doanh nghiệp phục hồi. Điều quan trọng là phải hạ được lãi suất cho vay. Phối hợp hai chính sách này như Trung Quốc là bài học cần xem xét.
KÍCH CẦU CŨNG TỪ NGƯỜI NGHÈO
Cũng theo nhóm chuyên gia, Việt Nam là nước có tỷ lệ nhập khẩu lên đến hơn 100% GDP và Xuất khẩu cũng có tỷ lệ tương tự. Như vậy gói kích cầu tiêu dùng rất dễ bị chảy ra nước ngoài thông qua hàng nhập khẩu làm cho hiệu quả gói kích cầu kém hiệu quả.
Tổng cầu Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào cầu xuất khẩu khi xuất khẩu chiếm hơn 100% GDP. Trong khi các đối tác lớn của Việt Nam đều đang thực hiện các gói kích cầu lớn nên nhu cầu nhập khẩu cao.
Vì vậy hiệu quả nhất của gói kích cầu đó là thực hiện các biện pháp hỗ trợ để thúc đẩy xuất khẩu như giảm chi phí logistics, hỗ trợ chi phí phòng dịch, đảm bảo doanh nghiệp xuất khẩu hoạt động 100% công suất, tăng cường năng lực thông quan, xây dựng nhà ở công nhân tập trung…
Thứ hai, đó là kích cầu tiêu dùng. Người nghèo là những người tiêu dùng hàng trong nước là chủ yếu và ít tiêu dùng hàng nhập khẩu, do đó, hỗ trợ trực tiếp bằng tiền cho người nghèo, nhân dịp tết là một động lực cực kỳ quan trọng để đẩy mạnh sản xuất hiện nay.
Thứ ba, các gói hỗ trợ cần tập trung khắc phục những vấn đề bộc lộ của nền kinh tế mà đã lâu nay vẫn chưa thực hiện được.