HSBC vẫn bi quan về tình hình sản xuất tại Việt Nam
HSBC cho hay, cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tiếp tục giảm trong kỳ khảo sát mới nhất
Ngân hàng HSBC vừa công bố chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất tại Việt Nam trong tháng 7/2013 với nhiều đánh giá bi quan về tình hình sản xuất.
Theo thông cáo của HSBC, lĩnh vực sản xuất của Việt Nam tiếp tục suy giảm trong tháng 7 mặc dù với tốc độ chậm hơn khi sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới giảm yếu hơn và việc làm không có thay đổi. Biên lợi nhuận vẫn chịu áp lực khi giá xuất xưởng tiếp tục giảm, nhưng giá đầu vào lại tăng nhanh hơn.
Chỉ số nhà quản trị mua hàng trong tháng 7 có kết quả 48,5 điểm, tuy đã có cải thiện hơn so với mức 46,4 điểm của tháng 6 nhưng vẫn nằm dưới ngưỡng 50 điểm, biểu thị lĩnh vực sản xuất giảm sút ba tháng liên tiếp.
Cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tiếp tục giảm trong kỳ khảo sát mới nhất, mặc dù với tốc độ chậm hơn. Các biến số chính này giảm nhẹ phản ánh các điều kiện thị trường yếu, với năng lực mua hàng của khách hàng yếu kém hơn.
Dữ liệu tháng 7 cho thấy số lượng đơn đặt hàng mới thực giảm một phần chịu ảnh hưởng bởi mức giảm số lượng đơn đặt hàng mới từ nước ngoài. Số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã giảm tháng thứ hai liên tiếp và ở tốc độ nhanh nhất kể từ đầu năm.
Sản lượng dư thừa cũng được chuyển sang thành hàng tồn kho trong tháng 7, với lượng hàng tồn kho thành phẩm tăng nhanh nhất kể từ tháng 6/2012. Hiện hàng tồn kho đã tăng trong hai tháng liên tiếp.
Về khía cạnh việc làm, các nhà sản xuất Việt Nam đã không thay đổi số lượng việc làm trong tháng 7 sau khi giảm trong hai tháng trước đó. Trong khi một số thành viên nhóm khảo sát cho rằng họ đã tăng số lượng nhân công để thúc đẩy sản xuất, những thành viên khác lại cắt giảm việc làm trong bối cảnh số lượng đơn đặt hàng mới bị giảm.
Giá cả đầu ra tiếp tục bị giảm trong tháng 7, tháng thứ tư liên tiếp chứng kiến mức giá trung bình giảm. Giảm giá bán đã phản ánh tình hình cạnh tranh gay gắt trên thị trường và những nỗ lực thúc đẩy bán hàng. Có một số bằng chứng cho thấy giá cả đầu ra đã phải giảm để giúp giải phóng hàng tồn kho tại các nhà máy.
Ngược lại giá cả đầu vào lại tiếp tục tăng. Tăng giá đầu vào đã được ghi nhận bảy tháng liên tiếp khi mà hạn chế nguồn cung hàng hóa đầu vào đã góp phần đẩy giá lên cao. Cũng có bằng chứng cho thấy đồng đô la Mỹ mạnh lên đã làm chi phí nhập khẩu tăng.
Bình luận về kết quả khảo sát trên, bà Trinh Nguyen, Chuyên viên kinh tế - Ngân hàng HSBC nói hoạt động sản xuất ở Việt Nam tiếp tục suy giảm do các điều kiện yếu kém cả ở trong nước và nước ngoài và số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới sụt giảm chủ yếu là do nhu cầu ở Trung Quốc yếu kém.
“Các điều kiện bên ngoài có thể sẽ được cải thiện trong quý 4 khi nhu cầu ở Mỹ, Nhật Bản, khu vực đồng tiền chung châu Âu và Trung Quốc có thể sẽ phục hồi. Trong khi viễn cảnh đó sẽ hỗ trợ phần nào thì đa số những yếu kém của Việt Nam là do những vấn đề nảy sinh ở trong nước và đòi hỏi cải cách phải được thực hiện nhanh hơn. Ngân hàng Nhà nước hiện vừa giảm lãi suất thị trường mở (OMO) thêm 50 điểm để làm dịu nhẹ tình hình thanh khoản. Tuy nhiên điều đó dường như chỉ là một giải pháp tạm thời khi mà vẫn cần thực hiện những cải cách căn bản để giải quyết những khó khăn về tín dụng ở Việt Nam”, bà Trinh Nguyen nói.
Theo thông cáo của HSBC, lĩnh vực sản xuất của Việt Nam tiếp tục suy giảm trong tháng 7 mặc dù với tốc độ chậm hơn khi sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới giảm yếu hơn và việc làm không có thay đổi. Biên lợi nhuận vẫn chịu áp lực khi giá xuất xưởng tiếp tục giảm, nhưng giá đầu vào lại tăng nhanh hơn.
Chỉ số nhà quản trị mua hàng trong tháng 7 có kết quả 48,5 điểm, tuy đã có cải thiện hơn so với mức 46,4 điểm của tháng 6 nhưng vẫn nằm dưới ngưỡng 50 điểm, biểu thị lĩnh vực sản xuất giảm sút ba tháng liên tiếp.
Cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tiếp tục giảm trong kỳ khảo sát mới nhất, mặc dù với tốc độ chậm hơn. Các biến số chính này giảm nhẹ phản ánh các điều kiện thị trường yếu, với năng lực mua hàng của khách hàng yếu kém hơn.
Dữ liệu tháng 7 cho thấy số lượng đơn đặt hàng mới thực giảm một phần chịu ảnh hưởng bởi mức giảm số lượng đơn đặt hàng mới từ nước ngoài. Số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã giảm tháng thứ hai liên tiếp và ở tốc độ nhanh nhất kể từ đầu năm.
Sản lượng dư thừa cũng được chuyển sang thành hàng tồn kho trong tháng 7, với lượng hàng tồn kho thành phẩm tăng nhanh nhất kể từ tháng 6/2012. Hiện hàng tồn kho đã tăng trong hai tháng liên tiếp.
Về khía cạnh việc làm, các nhà sản xuất Việt Nam đã không thay đổi số lượng việc làm trong tháng 7 sau khi giảm trong hai tháng trước đó. Trong khi một số thành viên nhóm khảo sát cho rằng họ đã tăng số lượng nhân công để thúc đẩy sản xuất, những thành viên khác lại cắt giảm việc làm trong bối cảnh số lượng đơn đặt hàng mới bị giảm.
Giá cả đầu ra tiếp tục bị giảm trong tháng 7, tháng thứ tư liên tiếp chứng kiến mức giá trung bình giảm. Giảm giá bán đã phản ánh tình hình cạnh tranh gay gắt trên thị trường và những nỗ lực thúc đẩy bán hàng. Có một số bằng chứng cho thấy giá cả đầu ra đã phải giảm để giúp giải phóng hàng tồn kho tại các nhà máy.
Ngược lại giá cả đầu vào lại tiếp tục tăng. Tăng giá đầu vào đã được ghi nhận bảy tháng liên tiếp khi mà hạn chế nguồn cung hàng hóa đầu vào đã góp phần đẩy giá lên cao. Cũng có bằng chứng cho thấy đồng đô la Mỹ mạnh lên đã làm chi phí nhập khẩu tăng.
Bình luận về kết quả khảo sát trên, bà Trinh Nguyen, Chuyên viên kinh tế - Ngân hàng HSBC nói hoạt động sản xuất ở Việt Nam tiếp tục suy giảm do các điều kiện yếu kém cả ở trong nước và nước ngoài và số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới sụt giảm chủ yếu là do nhu cầu ở Trung Quốc yếu kém.
“Các điều kiện bên ngoài có thể sẽ được cải thiện trong quý 4 khi nhu cầu ở Mỹ, Nhật Bản, khu vực đồng tiền chung châu Âu và Trung Quốc có thể sẽ phục hồi. Trong khi viễn cảnh đó sẽ hỗ trợ phần nào thì đa số những yếu kém của Việt Nam là do những vấn đề nảy sinh ở trong nước và đòi hỏi cải cách phải được thực hiện nhanh hơn. Ngân hàng Nhà nước hiện vừa giảm lãi suất thị trường mở (OMO) thêm 50 điểm để làm dịu nhẹ tình hình thanh khoản. Tuy nhiên điều đó dường như chỉ là một giải pháp tạm thời khi mà vẫn cần thực hiện những cải cách căn bản để giải quyết những khó khăn về tín dụng ở Việt Nam”, bà Trinh Nguyen nói.