Đánh đổi hiệu quả sử dụng vốn lấy tăng trưởng doanh thu
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp Việt Nam đã và đang bị đánh đổi để đạt được tăng trưởng doanh thu
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp Việt Nam đã và đang bị đánh đổi để đạt được tăng trưởng doanh thu, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng lực hoạt động bền vững của doanh nghiệp.
Đó là nhận định của ông Mohammad Mudasser, lãnh đạo dịch vụ tư vấn quản lý vốn lưu động của PwC Việt Nam đưa ra tại báo cáo nghiên cứu mới nhất về "Tăng trưởng bền vững và khả năng thanh khoản" lần 2 vừa được công bố.
Báo cáo được thực hiện trên cơ sở phân tích tình hình quản lý vốn lưu động của 509 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam tính theo doanh thu, thuộc 15 nhóm ngành khác nhau trong 4 năm gần nhất. Hơn 500 doanh nghiệp đã và đang được niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE) và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) trong suốt 4 năm qua.
Theo PwC, tốc độ tăng trưởng doanh thu của các doanh nghiệp tại Việt Nam trong giai đoạn năm tài chính 2017-2018 ở mức hai con số, đạt 15%. Tuy nhiên, biên lợi nhuận chưa tăng trưởng ở mức tương ứng do kém hiệu quả trong việc quản lý chi phí. Kết quả là, tỷ suất sinh lời trên vốn dài hạn (ROCE) của các doanh nghiệp trong phạm vi nghiên cứu tiếp tục xu hướng suy giảm, riêng trong năm 2018 đã giảm 6,7 điểm phần trăm.
Bên cạnh đó, khoảng 24,1 tỷ USD tiền mặt hiện đang bị tồn đọng trong vốn lưu động thuần của các doanh nghiệp tại Việt Nam. Tổng giá trị cơ hội cải thiện chiếm khoảng 50% vốn lưu động thuần và tương đương với 7% doanh thu của các doanh nghiệp được nghiên cứu. Riêng cơ hội đối với ngành hàng tiêu dùng và ngành kỹ thuật - xây dựng chiếm khoảng một phần ba tổng lượng tiền mặt có thể được giải phóng.
Báo cáo của PwC chỉ ra, chu kỳ tiền mặt (C2C) tiếp tục ghi nhận suy giảm. Số ngày chu kỳ tiền mặt năm tài chính 2018 đạt 67 ngày, tăng 2 ngày so với 2017, chủ yếu là do sự sụt giảm của chu kỳ khoản phải trả người bán của doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu động chủ yếu đang được tài trợ bằng nợ vay ngắn hạn thay vì nỗ lực giải phóng tiền mặt từ hoạt động của doanh nghiệp.
"Những doanh nghiệp tăng trưởng nhanh (với tăng trưởng doanh thu bốn năm gần nhất cao hơn mức trung vị trong bốn năm gần nhất) gia tăng việc sử dụng nợ vay ngắn hạn, với CAGR nợ vay ngắn hạn bốn năm gần nhất ở mức 13,5%, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng doanh thu. Việc này tiềm ẩn nhiều rủi ro cho khả năng hoạt động bền vững của doanh nghiệp", PwC nhận định.
Chính những điều trên khiến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của các doanh nghiệp tại Việt Nam tiếp tục kém hơn đa số các nước thuộc khu vực châu Á cũng như các khu vực và quốc gia phát triển như châu Âu, Mỹ và châu Úc. Doanh nghiệp Việt Nam có C2C cao hơn 9 ngày so với trung vị châu Á và cao hơn đến 13 ngày so với Malaysia.
Từ kết quả báo cáo có thể nhận thấy sự chênh lệch về hiệu quả quản lý vốn lưu động ngày một tăng giữa các doanh nghiệp quản lý tốt nhất và kém nhất theo từng nhóm ngành. Sự khác biệt rõ rệt về hiệu quả thực hiện giữa nhóm doanh nghiệp quản lý tốt và chưa tốt vốn lưu động trong năm qua.
Trong khi doanh nghiệp đạt hiệu quả cao liên tục cải thiện kết quả đạt được, cụ thể chu kỳ C2C được rút ngắn đáng kể, thì những doanh nghiệp đạt hiệu quả thấp tiếp tục ghi nhận sự suy giảm, điều này dẫn đến sự suy giảm tổng thể của C2C cho các doanh nghiệp phân tích.
Nhóm doanh nghiệp này còn ghi nhận hiệu quả tài chính vượt trội về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tỷ lệ thanh khoản cũng như khả năng tự tài trợ thay vì dựa vào các nguồn tài chính bên ngoài so với nhóm còn lại.
Báo cáo nhìn nhận, quản lý vốn lưu động hiệu quả có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp giúp kiểm soát và giải phóng tiền mặt còn tồn đọng, đây cũng là nguồn vốn giá trị cao mà các doanh nghiệp thường xuyên bỏ qua. Đặc biệt với thực trạng hiện nay khi các doanh nghiệp tăng trưởng nhanh đang ngày một phụ thuộc vào các nguồn vốn vay mượn ngắn hạn.
Đề cập đến những trăn trở về tăng trưởng bền vững, báo cáo này cũng ghi nhận rằng những doanh nghiệp có hiệu quả sử dụng vốn tốt nhất đang ngày một rút ngắn số ngày C2C, xu hướng này sẽ càng gia tăng khoảng cách, khiến các doanh nghiệp trong nhóm sử dụng vốn kém hiệu quả ngày một tụt lại phía sau.
Đáng chú ý, bên cạnh lượng tiền mặt bị tồn đọng trong vốn lưu động thuần tăng gấp đôi chỉ sau 1 năm, cũng như sự suy giảm của chu kỳ tiền mặt C2C, mức chênh lệch gần như tương phản giữa chỉ số tăng doanh thu (15%) và biên lợi nhuận (3%) ở các doanh nghiệp tại Việt Nam làm nổi cộm lên gánh nặng về chi phí vận hành, đồng thời chỉ ra rằng cơ hội để các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn là rất lớn.
Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tích cực quản lý và duy trì các yếu tố trong quản lý vốn lưu động để tối ưu hóa hiệu quả và tăng cường tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp.
Để gia tăng lợi thế cạnh tranh, báo cáo đưa giải pháp, một số việc doanh nghiệp có thể bắt đầu thực hiện để chủ động cải thiện hiệu quả sử dụng vốn lưu động có thể kể đến: làm việc với các cấp lãnh đạo doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực quản lý vốn lưu động; đảm bảo các cấp quản lý hiểu được tầm quan trọng của vốn lưu động với doanh nghiệp; tích hợp chuyên môn, hệ thống thông tin, phân tích dữ liệu tối ưu để cải thiện quy trình quản lý vốn lưu động; cung cấp cho các phòng ban thông tin và các công cụ cụ thể, chính xác với mục đích nâng cao vị thế của doanh nghiệp trong quá trình đàm phán. Mặt khác, phối hợp với các bên liên quan nhằm làm giảm lượng vốn lưu động trong nội tại doanh nghiệp cũng như xuyên suốt chuỗi cung ứng.