Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao: Cần có thể chế, chính sách để khắc phục, phòng ngừa tội phạm
Theo Viện kiểm sát cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động phát hành trái phiếu, sử dụng tiền thu được từ nguồn trái phiếu đúng mục đích phát hành, hoạt động ngoại hối, giao dịch chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài về Việt Nam...
Liên quan đến vụ án Vạn Thịnh Phát giai đoạn 2, Viện kiểm sát nhân dân tối cao vừa tống đạt cáo trạng truy tố 34 bị can về các tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Rửa tiền và Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới. Trong đó, bị can Trương Mỹ Lan (Chủ tịch Tập đoàn Vạn Thịnh Phát) bị truy tố về 3 tội danh trên.
Cáo buộc về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thể hiện, từ năm 2018 đến năm 2020, Trương Mỹ Lan đã đề ra chủ trương và chỉ đạo các bị can thuộc Vạn Thịnh Phát và Công ty chứng khoán TVSI sử dụng 4 Công ty gồm An Đông, Sunny World, Quang Thuận và Setra phát hành 25 mã trái phiếu “khống”, với tổng khối lượng là 308 triệu trái phiếu.
Qua đó, huy động vốn của 35.824 nhà đầu tư (nhà đầu tư thứ cấp), thu về tổng số tiền 30.081 tỷ đồng, sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, không đúng mục đích phát hành dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ trái phiếu.
HÀNG TRĂM NGHÌN TỶ ĐỒNG ĐƯỢC SỬ DỤNG NHƯ NÀO?
Ở tội “Rửa tiền”, theo cáo buộc, từ ngày 1/1/2018 đến ngày 7/10/2022, Trương Mỹ Lan và đồng phạm đã chiếm đoạt tổng số tiền là 445.748 tỷ đồng thông qua tham ô tài sản của Ngân hàng SCB và phát hành trái phiếu như trên.
Trong quá trình chiếm đoạt số tiền này, Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo đồng phạm thực hiện các hành vi rút tiền, chuyển tiền ra khỏi hệ thống Ngân hàng SCB nhằm che giấu nguồn gốc, hợp thức sử dụng số tiền do phạm tội mà có.
Việc rút tiền mặt được thực hiện ở Ngân hàng SCB chi nhánh Sài Gòn. Quy trình rút tiền như sau. Theo chỉ đạo của bà Lan, Nguyễn Phương Hồng phối hợp với Trương Khánh Hoàng, Trần Thị Mỹ Dung yêu cầu Nguyễn Phương Anh lập danh sách các pháp nhân, cá nhân nhận tiền, rút tiền; đồng thời chỉ đạo Thái Thị Thanh Thảo, giám đốc phòng dịch vụ khách Wholesale (SCB) phối hợp với Nguyễn Phương Anh.
Phương Anh chỉ đạo các nhân viên kế toán được giao quản lý các công ty “ma” lập chứng từ và chuyển cho Thảo thông tin để lập chứng từ hoàn tất rút tiền. Các cá nhân này được hẹn đến ngân hàng ký chứng từ rút tiền. Hoàn tất các thủ tục rút tiền, Thảo báo cho Trần Thị Thúy Ái, kiểm soát viên ngân quỹ SCB để xuất tiền mặt, giao cho Bùi Văn Dũng (lái xe bà Lan) tại hầm B1 trụ sở ngân hàng.
Dũng vận chuyển tiền giao cho Trần Thị Hoàng Uyên (thư ký của bà Lan) hoặc chuyển tiền về Vạn Thịnh Phát hoặc trực tiếp chuyển tiền cho các cá nhân theo chỉ đạo của bà Lan.
Số tiền này được dùng để chuyển cho các cá nhân 15.143,82 tỷ đồng; chi thực hiện dự án 1.898,09 tỷ đồng; trả nợ giữa các công ty/cá nhân/ trong Tập đoàn Vạn Thịnh Phát vay mượn nhau hơn 48.430 tỷ đồng;
Trả cho các ngân hàng khác ngoài SCB hơn 7.616 tỷ đồng; chỉ trả cho các khoản vay tại SCB hơn 183.228 tỷ đồng; chuyển cho SCB Cầu Giấy để mua USD hơn 356 tỷ đồng;
Trả gốc, lãi các gói trái phiếu đã phát hành hơn 1.690 tỷ đồng; chuyển ra nước ngoài hơn 32.164 tỷ đồng (tương đương hơn 1,3 triệu USD), chi cá nhân và chi khác hơn 8.074 tỷ đồng.
Số tiền còn lại được bà Lan chỉ đạo chuyển ra khỏi tài khoản sử dụng vào mục đích khác.
Giữ vai trò đồng phạm, bị can Chu Lập Cơ (chồng bà Lan) bị xác định đã chi tiêu hơn 225 tỷ đồng trong các thẻ tín dụng trong đó có hơn 113 tỷ đồng có nguồn gốc từ các khoản vay khống tại SCB. Cụ thể có hơn 33,3 tỷ đồng tiền do vợ tham ô tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ở tội Vận chuyển tiền tệ qua biên giới, theo cáo trạng, mỗi khi cần chuyển tiền ra nước ngoài để trả nợ hoặc nhận tiền vay từ nước ngoài về Việt Nam, Trương Mỹ Lan giao cho Trịnh Quang Công phối hợp với Nguyễn Phương Anh, Chiu Bing Keung Kenneth (luật sư được Lan giao quản lý các công ty nước ngoài) lập các hợp đồng “khống” mua bán cổ phần, vốn góp, tư vấn, vay nợ…
Thông qua các hợp đồng “khống”, các bị can đã vận chuyển qua biên giới hơn 4,5 tỷ USD tương đương hơn 106.730 tỷ đồng. Trong đó, chuyển đi 1,5 tỷ USD tương đương hơn 35.361 tỷ đồng, nhận về hơn 3 triệu USD tương đương 71.368 tỷ đồng.
KIẾN NGHỊ CÓ THỂ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐỂ KHẮC PHỤC TỘI PHẠM
Viện kiểm sát cho rằng, quá trình điều tra, truy tố vụ án cho thấy có sơ hở, thiếu sót trong một số văn bản quy phạm pháp luật, trong công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực chứng khoán, tài chính, ngân hàng (quản lý ngoại hối; công tác phòng, chống rửa tiền, tín dụng) là nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội của các bị can.
Một số cơ quan nhà nước không kịp thời phát hiện những sai phạm của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, các công ty thuộc Tập đoàn Vạn Thịnh Phát để xử lý kịp thời.
Do đó, theo Viện kiểm sát cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động phát hành trái phiếu, sử dụng tiền thu được từ nguồn trái phiếu đúng mục đích phát hành, hoạt động ngoại hối, giao dịch chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài về Việt Nam.
Viện kiểm sát sẽ kiến nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật còn thiếu sót, sơ hở; kiến nghị các cơ quan hữu quan có thể chế, chính sách, giải pháp để khắc phục, phòng ngừa vi phạm, tội phạm.
Trước đó, vào ngày 12/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an có công văn kèm theo yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự, đề nghị Tổng chưởng lý Quần đảo British Virgin, Tổng chưởng lý Quần đảo Cayman (đều thuộc Vương quốc Anh) và Cục Tư pháp Khu hành chính đặc biệt Hong Kong (Trung Quốc) phối hợp xác minh về pháp lý của 11 tổ chức nước ngoài, giám đốc đại diện pháp luật của 11 tổ chức nước ngoài liên quan đến vụ án.
Trong đó, đặc biệt xác minh mối quan hệ của 11 tổ chức nước ngoài này với vợ chồng bà Trương Mỹ Lan; mối quan hệ giữa các công ty trên với tổ chức và cá nhân tại Việt Nam.
Ngày 14/5/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an có công văn kèm theo yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự xác minh đối tượng Chiu Bing Keung Kenneth, Chen Yi Chung về các nội dung liên quan trong vụ án.
Tuy nhiên, đến nay các yêu cầu tương trợ tư pháp nêu trên chưa có kết quả.